Ngôi đền cổ "tựa sơn - hướng thuỷ"
Toạ lạc tại nơi có phong cảnh sơn thủy hữu tình, cách Thành phố Hà Tĩnh khoảng 40km về phía Đông Bắc và cách Thành phố Vinh (tỉnh Nghệ An) khoảng 10km về phía Nam, đền Chợ Củi còn có tên chữ là “Thánh Mẫu Linh từ”. Căn cứ vào các nguồn tư liệu đang được lưu giữ tại đền cho biết, đền Chợ Củi được xây dựng vào thời Hậu Lê có cấu trúc theo kiểu chữ Tam gồm các hạng mục tam quan, hạ điện, trung điện và thượng điện.
Đền Chợ Củi Đền Chợ Củi vốn là điện thờ “Tam toà thánh vị, Vạn thế mẫu nghi”, với cảnh quan đẹp ở bờ Nam sông Lam. Đền có kiến trúc được cấu tạo nối liền với nhau theo trục thần đạo, bố cục kiểu chữ Tam gồm các hạng mục tam quan, hạ điện, trung điện và thượng điện, mặc dù đã trải qua nhiều lần tôn tạo nhưng vẫn giữ lại nét xưa, trang nghiêm thần bí, hài hòa với cảnh quan sông núi và tân thế của dân gian.
Toàn bộ không gian nội điện của đền Chợ Củi được bố trí thành các cung thờ từ trên xuống dưới gồm cung thờ Thánh Mẫu (thờ Tam phủ), cung thờ Ngũ vị Tôn ông, cung thờ Quan Hoàng Mười, cung Chầu Mười và cung Trần Triều. Với lịch sử hàng trăm năm tồn tại, dù đã trải qua một số lần trùng tu, tôn tạo và lần gần nhất là năm 2015, nhưng cho đến nay, ngôi đền vẫn giữ được vẹn nguyên nét linh thiêng, cổ kính.
Là một trong số những ngôi đền nổi tiếng linh thiêng, được mệnh danh là nơi có thể “cầu gì được đó” trong hệ thống đền thờ thuộc tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt, đền Chợ Củi quanh năm khói hương nghi ngút, thu hút rất đông du khách thập phương về đây tham quan vãn cảnh, dâng hương, chiêm bái hành lễ và hòa mình trong không gian văn hóa lễ hội đặc sắc.
Hàng năm, tại đền Chợ Củi thường diễn ra nhiều dịp lễ lớn, đó là lễ giỗ Thánh Mẫu (ngày 3/3 Âm lịch), lễ giỗ Đức Thánh Trần (ngày 20/8 âm lịch) và lễ hội đền Chợ Củi (ngày 10/10 âm lịch) - theo lưu truyền dân gian là ngày giỗ Đức Quan Hoàng Mười.
Không chỉ có cảnh quan đẹp hiếm có, sông núi đan xen nhau tạo nên vẻ đẹp huyền ảo; đền Chợ Củi còn là nơi diễn ra các sinh hoạt văn hóa dân gian đặc sắc như hát chầu văn, nghi lễ thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ - Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại…; tạo nên một không khí lễ hội rất sống động như mời gọi, lưu giữ bước chân du khách muôn phương.
Một góc đền Chợ Củi. |
Truyền thuyết về Đức Quan Hoàng Mười
Theo truyền thuyết, Đức Quan Hoàng Mười (Ông Hoàng Mười Nghệ An) là con của Vua cha Bát Hải Động Đình, vốn là thiên quan trên Đế Đình, thần tiên trong chốn Đào Nguyên. Theo lệnh, ông giáng trần để giúp dân phù đời. Về thân thế của ông khi hạ phàm thì có rất nhiều dị bản.
Trong tâm thức dân gian của người xứ Nghệ, Ông Hoàng Mười còn là hiện thân của vị tướng tài Lê Khôi (nghĩa quân Lam Sơn), gọi Lê Lợi bằng chú. Ông theo Lê Lợi và có nhiều công lớn trong 10 năm chống giặc Minh xâm lược, sau làm đến nguyên thần tam triều Lê gia, phong đến chức Khâm sai tiết chế Thủy lục chư dinh hộ vệ Thượng tướng quân.
Lại có giai thoại rằng, khi tướng quân Lê Khôi đánh thắng giặc trở về thì gặp một trận cuồng phong ập vào làm nhiều nhà dân vị đổ nát. Thương dân, ông lại cùng binh sĩ lên ngàn chặt tre, gỗ đưa về giúp dân làm nhà.
Một lần không may khi bè về đến chân Hồng Lĩnh ở núi Ngũ Mã thì cuồng phong lại ập đến làm vỡ bè, ông gặp nạn. Quân sỹ và dân làng chưa kịp mai táng cho ông thì mối đã đùn đất lên thi hài ông thành mộ. Cảm phục và biết ơn ông, người dân đã lập đền thờ. Ông rất linh thiêng và thường hiển thánh cứu giúp muôn dân.
Theo sử sách, tướng quân Lê Khôi mất năm Bính Dần (1446), an táng trên ngọn Long Ngâm của núi Nam Giới (huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh) và được xây đền thờ. Sau đó ông lại được tấn phong là Uy mục đại vương rồi Chiêu Trưng đại vương năm 1487.
Cũng ở xứ Nghệ, Ông Hoàng Mười được dân gian đồng nhất với nhân vật lịch sử nổi tiếng khác gắn bó với vùng quê này là Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, con trai thứ tám của Lý Thái Tổ từng làm Tri Châu Nghệ An.
Cung thờ Đức Quan Hoàng Mười bên trong đền Chợ Củi. |
Dù có nhiều giai thoại về Ông Hoàng Mười, thế nhưng sự tích được lưu truyền nhiều nhất có lẽ là câu chuyện: Ông Hoàng Mười giáng sinh thành Nguyễn Xí, một tướng giỏi dưới thời vua Lê Thái Tổ, có công giúp vua dẹp giặc Minh, sau được giao cho trấn giữ đất Nghệ An, Hà Tĩnh (cũng chính là nơi quê nhà). Tại đây ông luôn một lòng chăm lo đến đời sống của nhân dân, truyện kể rằng có một lần xảy ra cơn cuồng phong làm đổ hết nhà cửa, ông liền sai quân lên rừng đốn gỗ về làm nhà cho dân, rồi mở kho lương cứu tế.
Trong một lần đi thuyền trên sông, đến đoạn chân núi Hồng Lĩnh, thì lại có đợt phong ba nổi lên, nhấn chìm thuyền của ông và ông đã hóa ngay trên sông Lam. Trong khi mội người đang thương tiếc cử hành tang lễ, thì trời quang đãng, nổi áng mây vàng, bỗng thấy thi thể của ông nổi trên mặt nước nhẹ tựa như không, sắc mặt vẫn hồng hào tươi tắn như người đang nằm ngủ, khi vào đến bờ, đột nhiên đất xung quanh ùn ùn bao bọc, che lấy di quan của ông.
Lúc đó trên trời bỗng nổi mây ngũ sắc, kết thành hình xích mã (có bản nói là xích điểu) và có các thiên binh thiên tướng xuống để rước ông về trời. Sau này khi hiển ứng, ông được giao cho trấn thủ đất Nghệ Tĩnh, ngự trong phủ Nghệ An. Nhân dân suy tôn ông là Đức Ông Hoàng Mười (hay còn gọi là Ông Hoàng Mười Nghệ An, Ông Mười Củi) không chỉ vì ông là con trai thứ mười của Vua cha mà còn vì ông là người tài đức vẹn toàn, văn võ song toàn (chữ “mười” mang ý nghĩa tròn đầy, viên mãn).
Không những ông xông pha chinh chiến nơi trận mạc, Ông Hoàng Mười còn là người rất hào hoa phong nhã, giỏi thơ phú văn chương, không chỉ nơi trần thế mà các bạn tiên trên Thiên Giới ai cũng mến phục, các nàng tiên nữ thì thầm thương trộm nhớ. Sau các triều đại đã sắc tặng hình tượng Ông Hoàng Mười tất cả là 21 sắc phong (tất cả đều còn lưu giữ trong đền thờ ông).
Có thể nhận thấy rằng, dù là hiện thân của Chiêu Trưng đại vương hay Uy Minh Vương, nhưng hình tượng Ông Hoàng Mười vẫn rất gần gũi, gắn bó và có cái gì đó phù hợp với tâm lý và phong cánh người xứ Nghệ. Đó là con người có chí khí nam nhi, anh hùng ngang dọc, có tài văn võ và trí dũng hơn người. Ông biết lo nghĩ cho cuộc sống của dân chúng, biết vì dân, không ham danh lợi…
Cũng tại ngôi đền Chợ Củi linh thiêng, có một dòng họ đã nhiều đời “cha truyền con nối” làm thủ nhang (hay còn gọi là người gác đền), để đảm nhận nhiệm vụ đặc biệt: “chăm sóc ngôi đền và phục vụ các vị Thần linh”... Đó là dòng họ Nguyễn Sỹ, với 8 đời làm thủ nhang, tự nguyện cống hiến cả cuộc đời để chăm lo nhang khói, hương hoa cho các vị Phật, Thánh.
Bài tiếp theo: Hành trình gìn giữ, bảo tồn và phát huy giá trị Di tích Đền Chợ Củi