Sống trên vùng núi cao, thiên nhiên đã ban tặng cho đồng bào các dân tộc thiểu số ở huyện A Lưới (Thừa Thiên-Huế) nguồn sản vật phong phú. Đàn ông lên rừng tìm các con thú, chim muông. Phụ nữ xuống suối mò cua, bắt ốc. Từ đó, họ chế biến nên những món đơn giản, dân dã nhưng thể hiện rõ tính bản địa, nét độc đáo riêng trong văn hóa ẩm thực.
Món Lạp
Những món ăn được chế biến từ ngũ cốc như: xôi hông (adeep ihoat), xôi thui ống, cơm ống/lam (adeep ihoor)…phổ biến trong các lễ hội của người Tà ôi, Katu, Pa cô và là món đồng bào thường dâng cúng thần, đãi khách. Cơm nếp lam (Đooi chot) là món lam phổ biến nhất của người Pa cô. Bà con thường dùng nếp than để nấu món này. Đây là loại nếp hạt nhỏ, dẻo, mềm… Trước khi nấu, bà con lấy (nếp) bỏ vào ống nứa đã rửa sạch, rồi đổ nước vào ngập miệng ống, ngâm một đêm cho gạo mềm. Hôm sau, người ta sẽ đổ nước ra, lấy lá chuối bịt miệng ống và đặt trên bếp than. Người nấu ngồi bên bếp lửa cầm ống nứa trở qua trở lại, nấu từ đáy ống dần lên miệng ống. Khi mùi thơm của cơm nếp lan tỏa, ống nứa mềm thì cơm chín tới.
Các món chế biến từ thịt như thịt nướng tươi, nướng khô, nướng trực tiếp hay nướng bằng ống tre, xào, lạp thịt, thịt heo muối chua cũng là sự thú vị bất ngờ với khách miền xuôi. Từ cách chế biến đơn giản: Thịt thái nhỏ, cho vào hũ, ché hoặc ống tre, dùng tiêu rừng, muối gạo rang giã nhỏ, trộn đều lại với nhau rồi ủ kín, gác trên giàn bếp khoảng 7 - 10 ngày. Như vậy, thịt có thể sử dụng trong thời gian dài mà vẫn không mất mùi vị. Hấp dẫn nhất là món chuột nướng ống (A ật đù i hoor) và ếch nướng ống (A cụt đù i hoor). Chuột rừng hoặc ếch ở hốc núi đá được làm sạch, ướp gia vị cho vào ống tre. Miệng ống được bịt kín bằng lá chuối rồi đem nướng. Hơi nước trong ống tre sẽ làm thịt chín mà không bị khô, cháy. Món ăn này có thể bảo quản bằng cách treo lên gác bếp từ 4-5 tháng mà thịt vẫn tươi ngon.
Ếch nướng lá |
Các món ăn được chế biến từ cá, như cá gói lá rừng vùi tro, cá nướng, lạp cá, gỏi cá, cá nướng ống, mắm cá (pa đẹec buỏi)... cũng là món ăn ngon của đồng bào vùng cao. Cá suối được ướp với gừng rừng, ớt, chanh rồi xâu vào que tre, nướng đến khi cá có màu vàng, có thể bảo quản trong thời gian dài mà không bị ôi thiu. Khi nào dùng có thể nấu cháo, nấu canh. Ngoài ra, các loại côn trùng: mối (cláp), con dế (Anút), kiến chua (Aling ca xâu), kiến thơm, (Alinh ca do), kiến đỏ (Kasâu), nhộng ong (Càroi Acon Ghi zớ)... cũng thường hiện diện trong bữa ăn hàng ngày hay trong các dịp tết, lễ, cưới, hội làng.
Đối với các dân tộc thiểu số ở A Lưới, rượu có vai trò quan trọng trong đời sống ẩm thực. Các loại rượu của người Tà ôi, Ka tu và Pa cô rất đa dạng như Ariêu Tà vạc (rượu Tà vạc) , Ariêu Par đin (rượu Tà đin), Bhua/a riêu thăn (rượu sắn), Avíeet (rượu mía), Adương (rượu mây), Ariêu Chĩa (rượu dứa)... Các loại rượu này có sự khác nhau về nồng độ, chất lượng nhưng đều góp mặt trong bữa ăn thường ngày ở các gia đình cũng như các hội lớn của làng bản. Có thể nói rượu Tà vạc, Tà đin (loại cây mọc trong rừng hoặc được đem về trồng) là đặc sản phổ biến đối với các tộc người ở A Lưới. Cách làm men để chế biến các loại rượu có một vai trò quan trọng trong việc chế biến. Men rượu được làm từ nhiều loại cây như củ riềng (pari), rễ cây ớt (ria pơrớ), rễ cây chè hăng... giã nát, trộn lẫn bột gạo, vo thành viên nhỏ phơi khô.