Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX của tác giả Nguyễn Văn Uẩn là một công trình công phu về mảnh đất Hà Nội. Bộ sách được giải B Sách hay, Giải thưởng Sách Quốc gia lần thứ nhất.
Trong chương một - Thành trì Hà Nội - tác giả điểm qua mấy nét về lịch sử xây dựng thành Hà Nội. Theo Nguyễn Văn Uẩn, nói về nguyên tắc chung của việc xây dựng thành trì ở Việt Nam, nơi kinh đô hay các vùng lại càng phải tôn trọng nguyên tắc về phong thủy kỹ lưỡng.
Thế kỷ 10, nhà Lý dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Đó là nơi mà uy quyền triều định có thể vươn tới khắp nơi; đồng thời là chỗ kinh tế phồn thịnh, chỗ giao của các đường giao thông chính. Bên cạnh kinh tế, chính trị, một yếu tố không kém phần quan trọng là yêu cầu về phong thủy.
“Phong thủy là yếu tố gắn liền với đời sống con người Việt Nam, bắt nguồn từ một nền văn hóa rất xa xưa. Nghệ thuật quân sự thời phong kiến không thể thiếu kiến thức về phong thủy và thiên văn (ta có sách Binh gia yếu lược, Vạn kiếp bí truyền…)”, tác giả Nguyễn Văn Uẩn viết.
Theo phép phong thủy thì dù là thành trì, cung điện, đền đài, nhà cửa, mồ mả… bất luận là gì đằng trước phải có Tiền án, to thì là quả núi, ngọn đồi, nhỏ thì là một mô đất, rẻo cao, nó trấn giữ không cho tà thần hung khí xâm phạm vào chính đường.
Hà Nội, phong thuỷ, kinh đô, Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX, tác giả Nguyễn Văn Uẩn |
Hai bên phải có những thứ được mệnh danh là Bạch Hổ ở bên trái, Thanh Long ở bên phải để hỗ trợ bên cạnh. Sau lưng là Hậu chẩm - chỗ dựa vững chắc. Lại phải có long mạch, thường là con sông, hoặc hồ ao dài, long mạch luôn phải được khai thông để giữ lấy vượng khí.
Nếu những yếu tố phong thủy không đầy đủ, thì con người phải sửa lại thiên nhiên, đắp hoặc làm cao lên, khơi, nắn dòng nước để nơi đó tránh được những ảnh hưởng tai hại của thiên nhiên huyền bí, có được chỗ dựa vững chắc của khí thiêng trong trời đất.
Tác giả Nguyễn Văn Uẩn viết: “Trong thành Thăng Long xưa, núi Nùng, núi Khán là những gò cao đắp thêm, con sông Tô Lịch, Kim Ngưu đã được khơi dòng theo sách phong thủy”.
Về vị trí phong thủy Hà Nội, tác giả Nguyễn Văn Uẩn dẫn sách Thượng kinh phong vật (được cho là của Lê Quý Đôn, bản dịch của Trần Văn Giáp). Trong sách viết: “Thượng Kinh có núi Nùng ở giữa, trên núi có một chỗ lõm xuống, tức là rốn rồng; phía bắc có Tam Sơn, phía tây có Thái Hòa, phía tây bắc có Khán Sơn. Một dải sông Lô, trên tiếp giáp với Phong Châu, Tam Đái và Bạch Hạc, dưới liền với sông Đại Hoàng, phủ Lý Nhân. Dòng sông chảy vòng quanh cong như chiếc vành khuyên (sông Nhĩ).
Sông Tô Lịch ở phía đông Thượng Kinh, từ phía bắc chuyển sang phía tây, đến Hà Liễu thì chảy hợp vào sông Nhuệ, từng khúc từng khúc như quay đầu hướng về Thượng Kinh nên gọi là Nghĩa Thủy.
Ở phía tây Thượng Kinh, chỗ vùng nước muôn khoảnh, có trâu vàng ẩn hiện bên trong có sen trắng nở hoa mùa hè, đó là hồ Lãng Bạc.
Họa đồ kinh thành thời Lê. |
Bên trong La Thành có hai hồ Tả, Hữu Vọng, xưa vua Cao Hoàng vung gươm thần chỉ rùa vàng, nên gọi là hồ Hoàn Kiếm.
Phía tây nam Thượng Kinh có con sông Kim Ngưu ôm vòng phía trước, giống như chiếc đai ngọc. Núi Ngọc Điệp ở trước mặt hình như hai con cá bơi giỡn dưới nước, đó là cái án chắn trước mặt ở tầng thứ nhất. Bên ngoài lại có một dãy núi nữa, đó là cái án chắn trước mặt ở tầng hai.
Trong khoảng sáu bảy huyện Thượng Phúc, Phú Xuyên, Thanh Liêm, Bình Lục, Duy Tiên, Kim Bảng, địa thế thấp trũng, chứa nước rất nhiều, đó là cái minh đường ở đằng trước.
Thượng Kinh này dáng gọi là thế núi ôm bọc như choàng áo, dòng sông quanh vòng như cái đai, đằng sau tựa vào núi, đằng trước trông ra biển, thế đất đã mạnh lại hiểm trở, mạch đất đã hùng hậu lại chạy dài”.