Số trẻ sơ sinh ở Nhật Bản bị bệnh giang mai cao đáng báo động

0:00 / 0:00
0:00
Dữ liệu của cơ quan y tế Nhật Bản công bố ngày 10/11 cho thấy số trẻ sơ sinh sinh ra đã mắc bệnh giang mai ở Nhật Bản từ đầu năm đến nay đã vượt 12.000 ca, mức cao nhất từ trước đến nay.
Số trẻ sơ sinh ở Nhật Bản bị bệnh giang mai cao đáng báo động

Theo Viện nghiên cứu Các bệnh truyền nhiễm Quốc gia (NIID) của Nhật Bản, trong tuần từ ngày 23-29/10, nước này ghi nhận 188 ca trẻ sinh ra mắc bệnh giang mai, đưa tổng số trẻ thuộc diện này từ đầu năm đến nay lên 12.434 trẻ. Đây là tốc độ tăng nhanh nhất trong 24 năm kể từ khi dữ liệu được thu thập vào năm 1999.

Trước đó, ngày 7/11, giới chức y tế Mỹ cũng công bố số liệu đáng lo ngại khi số trẻ sơ sinh sinh ra mắc bệnh giang mai ở nước này đã tăng gấp 10 lần trong 10 năm qua. Báo cáo của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) Mỹ cho biết trong năm ngoái, nước này ghi nhận hơn 3.700 trường hợp trẻ sơ sinh mắc bệnh giang mai - tăng gấp 10 lần so với năm 2012.

Trẻ sinh ra đã mắc bệnh giang mai là do người mẹ mắc bệnh giang mai truyền vi khuẩn gây bệnh cho con trong quá trình mang thai. Bệnh này, lây truyền chủ yếu qua quan hệ tình dục. Ở phụ nữ mang thai, bệnh giang mai có thể dẫn đến sảy thai, tử vong ở trẻ sơ sinh hoặc gây ra các biến chứng lâu dài cho trẻ, chẳng hạn như mất thị lực, thính lực và dị tật xương. Mặc dù vậy, 90% số ca bệnh này có thể được ngăn ngừa thông qua biện pháp xét nghiệm và điều trị kịp thời trong thai kỳ. Bệnh giang mai có thể được chữa khỏi hoàn toàn nếu điều trị thích hợp ở giai đoạn đầu.

Các chuyên gia y tế khuyến nghị phụ nữ mắc bệnh giang mai cần điều trị dứt điểm trước khi mang thai để tránh lây sang con của mình.

Người gieo chữ bằng yêu thương ở làng Hữu Nghị
Người gieo chữ bằng yêu thương ở làng Hữu Nghị
(Ngày Nay) - Làng Hữu nghị Việt Nam được biết đến là nơi cưu mang những nạn nhân chất độc da cam. Ở đó, suốt 13 năm qua, cô giáo Nguyễn Thị Loan đã kiên nhẫn gieo từng con chữ, từng kỹ năng sống và từng niềm hy vọng cho những đứa trẻ mang nhiều khiếm khuyết nhưng luôn khao khát được lớn lên như bao người khác.
Khoảng trống nhận thức về HPV ở nam giới
Khoảng trống nhận thức về HPV ở nam giới
(Ngày Nay) - Từ năm 2026, Chính phủ chính thức đưa vắc xin HPV vào chương trình Tiêm chủng mở rộng quốc gia. Trong bối cảnh đó, việc phòng ngừa các bệnh do virus HPV gây ra không chỉ là câu chuyện của nữ giới còn là mối quan tâm chung của cả cộng đồng. Tuy nhiên, trên thực tế, nam giới - nhóm đối tượng cũng chịu nhiều nguy cơ từ HPV - vẫn đang đứng ngoài các chiến lược truyền thông và phòng bệnh.
Độc lập và hạnh phúc trong các doanh nghiệp xã hội NICE
Độc lập và hạnh phúc trong các doanh nghiệp xã hội thuộc Mạng lưới NICE
(Ngày Nay) - Có bao giờ bạn tự hỏi liệu những người khuyết tật thật sự cần gì? Họ cần lòng thương cảm? Hay họ cần các món quà vật chất từ các chương trình cứu trợ? Đều không phải. Thứ người khuyết tật cần hơn cả là được nhìn nhận như những công dân bình thường. Họ không muốn bản thân mình trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội. Họ muốn được thể hiện bản thân, được cống hiến hết mình cho cuộc sống này, để được độc lập và hạnh phúc.
Triển khai bảo hiểm y tế bổ sung là tất yếu
Triển khai bảo hiểm y tế bổ sung là tất yếu
(Ngày Nay) - Hiện nay, quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) mặc dù được đánh giá khá toàn diện so với mức đóng, tuy nhiên chưa đủ để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của toàn bộ người dân.
Ảnh minh hoạ.
Tạo môi trường pháp lý thuận lợi để phát triển giáo dục nghề nghiệp
(Ngày Nay) - Bộ Giáo dục và Đào tạo đang dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Giáo dục nghề nghiệp nhằm hướng dẫn các quy định mới của Luật Giáo dục nghề nghiệp, kiến tạo môi trường pháp lý thuận lợi để phát triển giáo dục nghề nghiệp, đáp ứng nhu cầu của người học, thị trường lao động.
Hoạt động nghiên cứu khoa học tại trường Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội (USTH). Ảnh: VGP.
Đầu tư khoa học cơ bản đúng hướng, hiệu quả được đo đếm rõ ràng
(Ngày Nay) - Sau hơn 5 năm triển khai, Chương trình 562 về phát triển khoa học cơ bản đã ghi dấu bằng những kết quả cụ thể: Số lượng và chất lượng công bố quốc tế tăng đều, nhiều nhóm nghiên cứu mạnh được hình thành, vị thế khoa học Việt Nam tiếp tục được củng cố trên bản đồ khu vực và thế giới.