Ung thư đại trực tràng trẻ hoá nhanh
TS.BS Phạm Văn Bình, Trưởng khoa Ngoại bụng I, BV K cho biết, ung thư đại trực tràng là một trong những ung thư đường tiêu hoá hay gặp nhất và có xu hướng tăng nhanh qua từng năm.
Theo số liệu WHO năm 2018, trên toàn thế giới có thêm 1,8 triệu ca mắc mới và gần 900.000 ca tử vong. Còn tại Việt Nam, ung thư đại trực tràng đứng thứ 5 trong số 10 bệnh ung thư phổ biến nhất với gần 15.000 ca mắc mới và gần 8.000 trường hợp tử vong.
TS Phạm Văn Bình cho biết, ung thư đại trực tràng tại Việt Nam đang có xu hướng trẻ hoá. Ảnh: T.Hạnh |
Đáng tiếc, tỉ lệ bệnh nhân đến BV chẩn đoán, phát hiện ung thư đại trực tràng ở giai đoạn sớm rất hiếm, chỉ khoảng hơn 20%, số còn lại đều đến viện ở giai đoạn tiến triển 3-4, do đó điều trị gặp nhiều hạn chế.
Trong khi nếu mắc ở giai đoạn 1, tỉ lệ sống sau 5 năm có thể lên tới 85-90%, giai đoạn 3 còn khoảng 40-60% nhưng đến giai đoạn cuối chỉ còn 10-20%.
TS Bình thông tin thêm, trước đây ung thư đại trực tràng thường gặp ở độ tuổi ngoài 50 nhưng hiện nay bệnh đang có xu hướng trẻ hoá rất nhanh, khoa từng phẫu thuật cho bệnh nhân mới 10, 12 tuổi.
Trường hợp bé trai 10 tuổi được phẫu thuật năm 2018, vào viện cấp cứu do đau bụng, tắc ruột. Khi xét nghiệm, bác sĩ phát hiện có khối ung thư biểu mô tuyến ở đại tràng sigma. Khi mổ, kích cỡ khối u đã lên tới 6 cm, xâm lấn vào thành đại tràng, ở giai đoạn muộn T4B.
Tuần vừa qua, TS Bình tiếp tục mổ cho một bệnh nhi mới 12 tuổi, cũng mắc ung thư đại trực tràng. Sau phẫu thuật, bệnh nhi tiến triển tốt.
Theo TS Bình, mỗi năm BV K phẫu thuật cho khoảng 22.000 – 23.000 bệnh nhân ung thư, trong đó riêng ung thư đại trực tràng đã chiếm 4.000 – 5.000 ca, tương đương 11-13 bệnh nhân/ngày.
Phương pháp mới cắt khối u đại trực tràng
Tại chương trình tập huấn về chẩn đoán và điều trị tổn thương polyp, ung thư đại trực tràng tại BV K ngày 24/4, BS Kenichiro Imai, chuyên gia nội soi tiêu hoá đến từ Nhật Bản cho biết, xu hướng gia tăng ung thư đại trực tràng không chỉ ở Việt Nam mà tại Nhật Bản hay nhiều nước khác cũng gặp phải.
Tuy nhiên, các nước châu Á chiếm đến 50% tổng lượng bệnh nhân ung thư đại trực tràng trên toàn thế giới. Nguyên nhân chủ yếu liên quan đến thói quen ăn uống nhiều đồ nướng, chiên rán, ăn nhiều thịt đỏ, ăn ít rau xanh, hoa quả.
BS Kenichiro Imai thị phạm ca nội soi cắt khối u đại tràng cho bệnh nhân 76 tuổi. Ảnh: T.Hanh |
Tại Nhật Bản, BS Imai cho biết, ung thư đại trực tràng là ung thư đứng vị trí số 1, với hơn 40.000 ca mắc mới. Tuy nhiên tỉ lệ do ung thư đại trực tràng ở quốc gia này chỉ chiếm trên 35% do có khoảng 50-60% người dân được phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm.
Do đó TS Imai nhấn mạnh, việc khám sàng lọc để phát hiện sớm ung thư đường tiêu hoá nói chung và ung thư đại trực tràng nói riêng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Trong đó riêng việc theo dõi và cắt polyp thường xuyên có thể giúp giảm tới 80% ung thư đại trực tràng. Theo thống kê, các loại đa polyp đại trực tràng nếu không được can thiệp sẽ có khoảng 50% chuyển thành ung thư.
Nhờ sự hỗ trợ của các chuyên gia từ Nhật Bản, BV K đã được chuyển giao kĩ thuật nội soi nhuộm màu và phóng đại cùng phương pháp cắt tách dưới niêm mạc, là tiến bộ mới trong chẩn đoán và điều trị ung thư đại trực tràng giai đoạn sớm. Tại Châu Á, ngoài Nhật Bản, Hàn Quốc, hiện mới có Thái Lan, Singapore triển khai kĩ thuật này.
TS.BS Bùi Thị Ánh Tuyết, Trưởng khoa Nội soi thăm dò chức năng, BV K cho biết, sau đợt đào tạo đầu tiên, BV đã thực hiện phẫu thuật cho 30 bệnh nhân, trong đó có nam bệnh nhân mới 27 tuổi ở Ninh Thuận, bị polyp di truyền, khi nội soi phát hiện trong lòng đại tràng có hơn 100 polyp.
Mới nhất ekip phẫu thuật nội soi cho bệnh nhân Lê Ích L., 76 tuổi ở Cao Bằng. Bệnh nhân đến khám do đi ngoài ra máu, sụt cân nhiều, khi nội soi, bác sĩ phát hiện có nhiều polyp tron đại trực tràng, trong đó cái lớn nhất có kích cỡ 3 cm nên đã chỉ định làm sinh thiết. Kết luận cho thấy, bệnh nhân mắc ung thư đại trực tràng giai đoạn sớm, chưa có di căn xa.
Bệnh nhân được chỉ định cắt tách dưới niêm mạc khối tổn thương. Theo đó sau cắt u, bác sĩ tiếp tục lấy toàn bộ khối u và vùng niêm mạc đi làm sinh thiết. Nếu kết quả u tại chỗ hoặc giai đoạn sớm 1a, có thể bảo tồn không phải cắt đoạn đại tràng. Nếu kết quả ở giai đoạn 1b, sẽ phải cắt đoạn đại tràng kèm vét hạch.
Theo TS Tuyết, phương pháp cũ rất khó đánh giá được mức độ tổn thương ở giai đoạn sớm, không biết khối u có di căn xa hay không nên nhiều khi phẫu thuật không triệt để.
Với phương pháp mới, bác sĩ sẽ sử dụng hệ thống máy nội soi thế hệ mới nhất giúp hình ảnh sắc nét, hiển thị rõ tổn thương dù là nhỏ nhất. Hệ thống này cũng có chức năng nhuộm màu bằng ánh sáng và phóng đại trên 100 lần, giúp phân tích rõ ràng vi cấu trúc và vi mạch máu của tổn thương, đưa ra nhận định chính xác về tính chất tế bào học của tổn thương, phân biệt tổn thương ung thư và không ung thư, từ đó cắt trọn tổn thương.
Ngoài ra, phương pháp nội soi ống mềm trước đây chỉ cho can thiệp với các khối u nhỏ dưới 2 cm nhưng phương pháp mới có thể can thiệp với các khối u trên 3 cm.
Đây là can thiệp tối thiểu nên bệnh nhân có thể xuất viện sau 4-5 ngày, giúp người bệnh tiết kiệm chi phí, kéo dài thời gian lui bệnh.