Chính phủ, các bộ ngành và địa phương đã triển khai quyết liệt, đồng bộ nhiều chính sách, giải pháp hiệu quả nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, hạn chế thiệt hại do tác động của dịch Covid-19; ổn định, phát triển sản xuất kinh doanh nói chung và sản xuất công nghiệp nói riêng, các doanh nghiệp đã nỗ lực chủ động ứng phó với dịch Covid-19.
Chỉ số toàn ngành công nghiệp ước tính quý III/2021 tăng trưởng âm, giảm 4,4% so cùng kỳ năm trước (tháng 7 giảm 0,3%, tháng 8 giảm 7,8%, tháng 9 ước tính giảm 5,5%), trong đó ngành khai khoáng giảm 7,2% so cùng kỳ (tháng 7 giảm 10,9%, tháng 8 giảm 2,8%, tháng 9 ước tính giảm 7,5%); ngành chế biến, chế tạo giảm 4,6% (tháng 7 tăng 0,7%, tháng 8 giảm 9,3%, tháng 9 ước tính giảm 4,9%); sản xuất và phân phối điện giảm 1% (tháng 7 tăng 1,7%, tháng 8 giảm 1,9%, tháng 9 ước tính giảm 9,6%); cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải giảm 0,4% (tháng 7 tăng 1%, tháng 8 giảm 0,1%, tháng 9 ước tính giảm 2%).
Tính chung 9 tháng năm 2021, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tính tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn 1,6 điểm % so với mức tăng cùng kỳ năm 2020 (quý I tăng 5,7%; quý II tăng 12,4%; quý III ước tính giảm 4,4%). Trong các ngành công nghiệp, ngành chế biến, chế tạo tăng 5,5% (quý I tăng 8,0%; quý II tăng 14,8%; quý III ước tính giảm 4,6%), đóng góp lớn nhất với 4,70 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 4,3% (quý I tăng 3,3%; quý II tăng 12,4%; quý III ước tính giảm 1,0%), đóng góp 0,39 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,6% (quý I tăng 6,4%; quý II tăng 5,1%; quý III ước tính giảm 0,4%), đóng góp 0,06 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm 6,4% (quý I giảm 8,1%; quý II giảm 3,9%; quý III ước tính giảm 7,2%), làm giảm 1,0 điểm phần trăm mức tăng chung.
Có 48/63 số địa phương (82,5%) trong cả nước có chỉ số IIP 9 tháng năm 2021 tăng so với cùng kỳ năm 2020, trong đó những địa phương có tốc độ tăng sản xuất công nghiệp cao nhất gồm: Ninh Thuận tăng 32,6%; Đắk Lắk tăng 25%; Hải Phòng tăng 19,7%; Nghệ An tăng 18,3%; Gia Lai tăng 17,4%; Hà Tĩnh tăng 16,6%; Thanh Hóa tăng 15,3%; Quảng Ngãi tăng 14,9%; Hà Nam tăng 14,4%;… Có 15 địa phương (23,8%) có chỉ số sản xuất công nghiệp giảm: TP Hồ Chí Minh giảm 12,9% (địa phương có quy mô kinh tế và công nghiệp lớn nhất cả nước); Bến Tre giảm 11,2%; Đồng Tháp giảm 9,9%; Cần Thơ giảm 9,8%; Khánh Hòa giảm 9,5%; Trà Vinh và Cao Bằng cùng giảm 7,3%; Bà Rịa-Vũng Tàu giảm 5,3% (chủ yếu do ngành khai dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 12,5%); Vĩnh Long giảm 4,5%; Đà Nẵng giảm 4,2%; Cà Mau giảm 3,8%; Kiên Giang giảm 3,6%; Long An giảm 3,4%; Tiền Giang giảm 1,7%; Tây Ninh giảm 1,2%.
Chỉ số IIP 9 tháng năm 2021 so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương có quy mô công nghiệp lớn như sau: Hải Phòng tăng 19,7%; Thanh Hóa tăng 15,3%; Quảng Ngãi tăng 14,9%; Vĩnh Phúc tăng 13,6%; Bắc Ninh tăng 11,7%; Hải Dương tăng 11,5%; Quảng Ninh tăng 10,6%; Bắc Giang tăng 8,4%; Quảng Nam tăng 7,4%; Thái Nguyên tăng 7,3%; Hà Nội tăng 4,1%; Đồng Nai và Bình Dương cùng tăng 2,9%; Đà Nẵng giảm 4,2%; Bà Rịa – Vũng Tàu giảm 5,3%; Cần Thơ giảm 9,8%; Thành phố Hồ Chí Minh giảm 12,9%.
Do tác động nặng nề của đại dịch Covid-19, có tới 40/63 địa phương (trên 63% tổng số địa phương cả nước) có chỉ số sử dụng lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/9/2021 giảm so cùng thời điểm năm trước; trong đó có 6 địa phương có tốc độ giảm lao động trên 50% gồm: Vĩnh Long giảm 83,1%; Trà Vinh giảm 77,9%; Hậu Giang giảm 67,6%; Thành phố Hồ Chí Minh giảm 63,3%; Đồng Tháp giảm 59,5%; Bến Tre giảm 52,1%. Có 3/63 địa phương có chỉ số sử dụng lao động giảm trên 30%, gồm: Bà Rịa-Vũng Tàu giảm 41,1%; Cần Thơ giảm 39,2%; Tây Ninh giảm 30,6% và có 4/63 địa phương có chỉ số sử dụng lao động giảm trên 20%, gồm: Kiên Giang giảm 28,1%; Tiền Giang giảm 27,7%; Cà Mau giảm 25,8%; Bình Dương giảm 24,8%.
Một số nguyên nhân làm cho sản xuất công nghiệp sụt giảm tốc độ tăng trưởng ở nhiều địa phương do ảnh hưởng nặng nề của làn sóng dịch Covid-19 lần thứ tư:
– Một bộ phận doanh nghiệp yếu thế đã phải phá sản, giải thể do không thể chống chịu được dịch Covid-19 bùng phát quá lâu.
– Một bộ phận doanh nghiệp phải tạm ngừng kinh doanh hoặc kinh doanh cầm chừng do kinh doanh không hiệu quả, thua lỗ trong điều kiện kinh doanh rất khó khăn.
– Một bộ phận doanh nghiệp không phát triển được do sản xuất các mặt hàng không thiết yếu, bị hạn chế lưu thông trong thời gian thực hiện giãn cách xã hội.
– Nhiều địa phương, đặc biệt là các địa phương thuộc trung tâm công nghiệp lớn, trung tâm dịch phí Nam phải thực hiện quy định dãn cách xã hội nghiêm ngặt để phòng chống dịch Covid-19 (quy định 3 tại chỗ, 1 cung đường và 2 điểm đến) nên không có đủ lực lượng lao động, hoặc phải chịu chi phí sản xuất cao để thực hiện các công đoạn cung ứng nguyên vật liệu, sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm. Nhiều doanh nghiệp không có đủ nguyên vật liệu để sản xuất nên không đáp ứng đủ đơn hàng đúng hạn, phải dãn hoặc hủy bỏ hợp đồng đã ký, trong đó có nhiều đơn hàng xuất khẩu.
– Một bộ phận doannh nghiệp phải ngừng hoạt động để thực hiện dãn cách xã hội như ngành xây dựng, kéo theo những ngành sản xuất vật liệu xây dựng như xi măng, sắt thép, gạch, gốm, sứ và các thiết bị xây lắp theo công trình sụt giảm sản xuất do không tiêu thụ được sản phẩm…