Giáo sư, Tiến sĩ Zaidi Embong từ Đại học Tun Hussein Onn Malaysia cho rằng cả 2 loại ô nhiễm này đều có khả năng phá hủy hệ sinh thái sinh vật biển và thậm chí ảnh hưởng đến an ninh lương thực toàn cầu. Bản chất của nhựa là khó phân hủy kể cả sau nhiều năm, các sinh vật biển dễ bị nhầm lẫn là thức ăn và nuốt phải dẫn đến nhựa tích tụ trong cơ thể và mô. Điều tai hại hơn là khi các sinh vật trở thành nguồn thực phẩm ô nhiễm được con người tiêu thụ dẫn tới những nguy cơ về sức khỏe.
Dựa trên số liệu thống kê của trang “Our World in Data – OWD”, tổng cộng 8 triệu tấn (tương đương 3% chất thải nhựa toàn cầu) sẽ đổ ra đại dương thông qua nhiều nguồn thải khác nhau mỗi năm. Ở Malaysia, ước tính trung bình mỗi năm con người sử dụng tổng cộng 9 tỷ vật liệu nhựa và một phần lớn trong số đó sẽ đổ ra biển. Các hạt vi nhựa có kích thước dưới 20 micron có thể xâm nhập vào cơ thể con người như cơ và mô và có thể gây nguy cơ đe dọa hệ hô hấp, mạch máu, thận và hệ tiêu hóa của con người.
Giáo sư Zaidi cũng cho biết bên cạnh vấn đề vi nhựa, những nhà môi trường cũng nên lưu ý đến các vấn đề liên quan nước đã qua xử lý thải ra biển từ các nhà máy hạt nhân. Mặc dù nước thải đã trải qua quá trình lọc để loại bỏ hầu hết các chất đồng vị phóng xạ nhưng trong nước vẫn có một số lượng lớn đồng vị tritium khó tách. Nước nhiễm đồng vị phóng xạ tritium có thể phá vỡ các hệ sinh thái biển và chuỗi thức ăn dưới đại dương, thậm chí có thể sản sinh chất gây ung thư và qua chuỗi thức ăn dẫn tới nguy cơ tương tự ở người.
Theo Giáo sư Zaidi, người dân Malaysia sẽ không được bảo vệ trước những nguy cơ nêu trên nếu nhận thức còn thấp và không chủ động hành động sớm để ngăn chặn nguy cơ. Ông hy vọng sẽ có những chiến dịch nâng cao nhận thức về những rủi ro đối với sức khỏe do tiếp xúc với ô nhiễm chất vi mô và chất thải hạt nhân và các cơ chế theo dõi chất lượng nước thường xuyên để bảo vệ lợi ích của cộng đồng trong tương lai.