Thưa nhà văn, nhà phê bình Ngô Thảo, những ký ức nào về chiến tranh mà ông cảm thấy không thể xóa nhòa? Làm thế nào mà những ký ức đó trở thành mạch nguồn cảm hứng cho các nhà văn trong thế hệ của ông?
Nhà văn - nhà phê bình Ngô Thảo: Tôi tốt nghiệp Khoa Văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội rồi nhập ngũ. Hai mươi năm khoác áo lính, trong đó có 5 năm ở đơn vị chiến đấu. Bắt đầu từ anh binh nhì của một đơn vị pháo binh, rồi làm trinh sát, trung đội phó, trung đội trưởng, chỉ huy đo cự ly... Tôi vào chiến trường Trị Thiên, tham gia hàng chục trận pháo binh. Trên đường đi đã nhiều lần phải tự tay chôn cất đồng đội hy sinh vì B-52. Vào đến chiến trường, việc chôn cất đồng đội lại lặp lại.
Thế hệ chúng tôi, chiến tranh gắn bó như máu thịt. Những người lính trẻ chúng tôi mang lý tưởng ra chiến trường, với khát vọng giành hòa bình, thống nhất cho đất nước. Tôi may mắn được trở về, tiếp tục đóng góp, có 15 năm làm văn nghệ quân đội, nơi tôi chứng kiến sự trưởng thành của một thế hệ nhà văn. Những giọng viết đồng thanh dần trở thành những giọng đơn ca sắc nét. Từ Nguyên Ngọc, Nguyễn Thi, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Hồ Phương, Hữu Mai... tất cả đều để lại dấu ấn riêng với những tác phẩm nối tiếp nhau ra đời, trở thành di sản của văn học thời chiến. Giờ đây, “cánh rừng nguyên sinh” ấy gần như đã rơi rụng, chỉ còn lại nhà văn Nguyên Ngọc.
Tôi nghĩ rằng, nhiệm vụ của những người sống sót như chúng tôi là tri ân. Tri ân những người đã ngã xuống, những con người đã dùng cả tài năng và phẩm chất của mình để tạo nên những tác phẩm khắc họa chiến công, tâm hồn người lính. Họ ghi công những người lính, đến lượt mình, chúng tôi phải ghi công lại họ. Bởi mai đây, khi thế hệ những người trực tiếp chiến đấu qua đi, những ngôi mộ ở Quảng Trị vẫn còn nhưng câu chuyện về họ sẽ mất nếu không có văn chương, không có nghệ thuật, không có những bài hát, những bộ phim. Chính những tác phẩm ấy sẽ kể lại cho mai sau rằng, ngày xưa, ở nơi đây, những người nằm xuống đã làm nên những điều kỳ vĩ.
![]() |
Nhà văn Ngô Thảo (giữa) trong buổi giới thiệu sách |
Nhiều nhà văn nhận định phê bình của Ngô Thảo không chỉ là phân tích mà còn giàu chất văn chương. Theo ông, ranh giới nào phân định giữa sự phê bình học thuật và cảm xúc sáng tạo?
Nhà văn - nhà phê bình Ngô Thảo: Quả thật có ranh giới đó. Trước hết, những tác phẩm phải mang lại cảm xúc để trong vị trí người phê bình tôi có thể đồng sáng tạo với tác giả. Nhưng đồng thời, phê bình cũng giúp tôi nhận thức được rằng cảm xúc đó đạt đến đâu so với yêu cầu của cuộc sống và nhiệm vụ mà cuộc sống đặt ra.
Chính vì vậy, cảm xúc không được phép lấn át sự bình tĩnh cá nhân, phải biết khen ai không khen quá lời, chê ai không chê quá lời. Phải biết mừng cho những gì người khác làm được, đồng thời cũng phải nhận thức rằng những nhà văn tài năng ở mức trung bình sẽ không thể làm được những điều ấy. Đối với họ, những đỉnh cao mãi mãi chỉ là những giấc mơ.
Xây dựng gương mặt rạng rỡ của đất nước
Là một nhà văn từng mặc áo lính, ông nhìn nhận điều gì đã làm nên "chất lính" riêng biệt trong các sáng tác văn học của thế hệ đã qua?
Nhà văn - nhà phê bình Ngô Thảo: Quan trọng nhất với thế hệ nhà văn chúng tôi là gắn bó số phận, cuộc đời và tâm hồn mình với tập thể, để chiến đấu vì mục tiêu lớn lao: giành độc lập, thống nhất đất nước. Chính sự gắn bó ấy, với nhân dân và lý tưởng của dân tộc, đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận để tất cả sáng tác.
Nhân dịp chính phủ đẩy mạnh công nghiệp văn hóa, tôi muốn nhấn mạnh rằng: điều cốt lõi là làm gì cũng phải hướng đến con người. Làm văn hóa cần tạo ra những con người tài năng cụ thể. Nhạc sĩ, họa sĩ, nhà văn, là những người có thể khẳng định chân dung của mình qua các tác phẩm cụ thể. Văn hóa không thể chỉ dừng ở khái niệm mơ hồ, mà phải hiện hữu thông qua những con người và những tác phẩm nổi bật.
Ngày nay, khi nghĩ về đất nước, chúng ta cần có những tác phẩm mà nhắc đến, người ta lập tức nhận ra văn hóa Việt Nam. Nhưng điều này hiện tại còn gặp nhiều khó khăn. Ngày trước, nhắc đến chiến trường Quảng Trị, đã có hàng chục tác phẩm của các nhà văn ghi lại. Hay khi nói đến Nam Bộ, người ta nghĩ ngay đến một thế hệ các cây bút. Có rất nhiều bài hát gắn với trận Đường 9 Nam Lào, miền Tây Nam Bộ với Tiểu đoàn 307 cũng vậy. Những tác phẩm đó đã cho chúng ta thấy thời xưa diễn ra những chiến công oanh liệt ra sao.
Tôi mong rằng trong tương lai, chúng ta sẽ phát triển nền văn hóa để ở bất cứ nơi nào, người ta cũng thấy những con người tài năng và những tác phẩm khắc họa đời sống hôm nay. Văn hóa quan trọng nhất chính là làm nên gương mặt của một địa phương, một đất nước, một thời đại. Bất kỳ thời nào cũng cần xây dựng những nhân cách văn hóa, con người văn hóa và những tác phẩm phản ánh tinh thần của vùng đất đó.
Đó không chỉ là điều thế hệ chúng tôi nghĩ đến, mà còn là điều những người lính đã hy sinh luôn khao khát. Không phải chỉ đến ngày kỷ niệm được nhớ tới, những người đã ngã xuống luôn mong đất nước này ngày càng tươi đẹp. Tôi tin, gương mặt rạng rỡ của đất nước hôm nay sẽ được tạo nên bởi chính những tác phẩm của những con người hôm nay.
Vậy đâu là sự khác biệt lớn nhất trong cách các nhà văn viết về người lính ở thời chiến và thời bình? Theo ông, làm sao để văn học về người lính vẫn giữ được sức hút trong đời sống hiện đại?
Nhà văn - nhà phê bình Ngô Thảo: Đây là một câu hỏi không dễ trả lời, nhưng rõ ràng có sự khác biệt. Ngày trước, người lính và nhân dân là một. Họ sống cùng nhà, ăn chung mâm, chiến đấu bên nhau. Cảm giác gắn bó ấy sâu sắc đến mức người lính không chỉ chiến đấu cho đất nước, mà còn cho những con người sát cánh bên mình. Còn bây giờ, người lính sống trong doanh trại, tách biệt hoàn toàn. Cái sự gần gũi, thân thiết đó đã không còn.
Ngày xưa, người lính lập công bằng những trận đánh thật, vượt qua những mục tiêu thật. Còn bây giờ, tất cả chỉ là giả định. Một thời “thép đã tôi thế đấy” nghĩa là trải qua lửa đỏ và nước lạnh để luyện thành. Nhưng người lính hôm nay phải rèn luyện mình trong điều kiện không có lửa đỏ, cũng chẳng có nước lạnh, chỉ có những bài tập lặp đi lặp lại thường ngày. Muốn giữ được tình cảm, sự trân trọng của nhân dân, rõ ràng, người lính bây giờ cần phải tìm ra con đường riêng, cách làm khác.
Và bản thân người lính cũng khác. Ngày trước, đi lính là để chiến đấu với kẻ thù rõ ràng, mục tiêu cụ thể. Nhưng bây giờ, họ phải tập tành, rèn luyện vì một kẻ thù giả định – một điều vừa khó, vừa mơ hồ. Trong tình thế ấy, việc giữ mình thành một người sắt thép như cha ông, ngay cả khi không có kẻ thù trước mặt, quả thực không hề dễ dàng. Tôi vẫn hy vọng lớp trẻ có thể làm được việc đó.
![]() |
Chiến tranh đã lùi xa nhưng đề tài về người lính vẫn luôn là nguồn cảm hứng bất tận trong văn học, nghệ thuật |
Nhà văn cần sống được bằng nghề
Nhà văn - nhà phê bình Ngô Thảo: Ông từng ví các nhà văn chiến sĩ như một “cánh rừng nguyên sinh” trong lịch sử văn học. Theo ông nhưng nhà văn thời nay thì như thế nào, đâu là những thách thức họ phải đối mặt?
Nói là “cánh rừng nguyên sinh” vì thực ra đó là những cây mọc dại, không phải do ai trồng. Bây giờ là rừng trồng, đào tạo trong trường viết văn và nhiều loại hình đào tạo khác. Nhưng thế hệ trước, họ không được đào tạo gì cả. Nhiều người học hành rất ít, nhưng cuộc sống đã cho họ cơ hội tự mọc lên giữa chiến trận, giữa cam go, giữa quăng quật nơi này nơi khác. Họ không có sự đào tạo nào, nhưng họ có sự bồi dưỡng từ cuộc sống, từ điều kiện thực tế. Chính vì vậy, tôi gọi họ là “rừng nguyên sinh”. Còn nhà văn bây giờ thì khác. Họ có trường lớp, có bài bản, có đầy đủ điều kiện, nhưng liệu họ có thể được bồi dưỡng như thế hệ trước hay không?
Ngày nay, thế hệ trẻ có nhiều điều kiện hơn, về kiến thức, tài năng, họ được phát hiện sớm hơn, dễ dàng tiếp cận thế giới bên ngoài, học hỏi và mở rộng kiến thức. Nhưng để chọn nghề văn, một nghề lao động nặng nhọc, đòi hỏi nghị lực và quyết tâm cao thì không dễ dàng. Viết văn không phải là công việc ngồi xuống, gõ vài chữ rồi xong. Nó là lao động trí óc, phải ngồi lại, nghiền ngẫm, thu thập tư liệu, dành cả bao nhiêu tháng trời để viết ra một cuốn sách. Một nghề không dễ dàng, phải có sức bền, phải có đam mê và điều quan trọng là khát vọng.
Còn xã hội, cần giữ những người viết văn không quá giàu có nhưng đủ sống để yên tâm viết, phải đáp ứng cho họ cuộc sống tối thiểu. Người viết văn không cần là đại gia, xưa nay, những người đại trí thức, những quân tử, nhà khoa học, những người có nhân cách lớn, họ không cần quá giàu có. Họ sống không phải vì của cải, mà vì sự nghiệp, vì con đường đã chọn. Nhưng xã hội phải đảm bảo cho họ cuộc sống đủ đầy, để họ có thể tiếp tục cống hiến.
Ngày xưa, thiếu đói có thể là một nguyên nhân tạo nên tài năng nhưng bây giờ không nên để điều đó thành động lực. Tài năng phải được nuôi dưỡng bởi những điều kiện khác. Hiện nay, chúng ta có 100 triệu dân, nhưng Hội Nhà văn Việt Nam với 1.000 hội viên, dù với tình cảm rất chân thành nhưng không thể quyên góp nổi 1 tỷ đồng. Trong khi các ca sĩ, những người danh tiếng trong lĩnh vực khác có thể một mình đóng góp cả tỷ đồng trong một lần. Điều đó cho thấy thu nhập từ văn chương hiện nay rất hạn chế. Các nhà văn rất nghèo, làm sao để họ sống được bằng nghề và giữ được khát vọng? Bởi nếu không họ sẽ biến văn chương thành trò chơi, khi nào thích thì viết, thỉnh thoảng mới viết và nghề này chẳng còn ai theo đuổi.
Văn học chiến tranh không chỉ kể lại mà còn truyền tải những giá trị tư tưởng. Ông đánh giá thế nào về sự tiếp nhận văn học chiến tranh của độc giả trẻ trong thời bình?
Nhà văn - nhà phê bình Ngô Thảo: Mỗi thời đều có những nhu cầu riêng. Nếu đứng về mặt xây dựng con người, văn học hôm nay cần phải xây dựng con người khác, vì vậy không thể lấy những tác phẩm của quá khứ làm mẫu mực để xây dựng con người trong thời đại này.
Tuy vậy, kiến thức vẫn là yếu tố rất quan trọng để định hình con người. Ngày xưa, trong chiến tranh, người ta đã định hình được những con người như thế, vậy còn hôm nay, chúng ta cần định hình con người như thế nào? Kinh nghiệm của những người xưa là tài sản quý báu để lớp trẻ hôm nay hiểu được rằng, họ cần làm gì, cần nghĩ đến ai bởi lý tưởng của thế hệ trẻ mỗi thời mỗi khác.