Ở các nước phương Tây, sỏi mật được hình thành từ các hóa chất trong mật và có thể chỉ bao gồm cholesterol, hỗn hợp canxi và sắc tố từ các tế bào hồng cầu hoặc kết hợp cả hai.
Ở các nước nhiệt đới và châu Á phần lớn là sỏi sắc tố mật được hình thành trong ống gan và đường dẫn mật do giun và nhiễm khuẩn. Sỏi mật là một trong các bệnh dễ gây nên các biến chứng nguy hiểm, nếu không can thiệp kịp thời sẽ đưa đến tình trạng nguy hiểm.
Hầu hết mọi người không biết mình có sỏi mật.
Thành phần của sỏi mật gồm những gì?
Sỏi mật gồm nước muối mật, sắc tố mật, canxi..., chúng cô đặc dần và thành sỏi. Đây là loại sỏi tổng hợp, hay gặp và có thể phát hiện khi chụp Xquang. Ngoài sỏi mật tổng hợp còn có nhiều loại sỏi khác như:
Sỏi cholesterol: Cấu tạo chủ yếu bằng cholesterol – là một thành phần chuyển hóa của gan, là một thành phần của mỡ máu. Loại này có màu vàng sẫm, không cản quang. Loại sỏi này hình thành khi có sự rối loạn về nồng độ cholesterol, acid mật và lecithin. Có một số yếu tố thúc đẩy sự hình thành sỏi cholesterol đó là: tuổi, giới (nữ/ nam = 3/1), chủng tộc, yếu tố gia đình, béo phì, phụ nữ đẻ nhiều con, uống một số thuốc như thuốc hạ mỡ máu, thuốc ngừa thai, ăn uống quá nhiều năng lượng...
Sỏi sắc tố mật: Thường gặp ở các nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam, có hai loại đen và nâu.
Sỏi sắc tố đen: Màu đen hình dạng không đều, nó được thành lập khi nồng độ bilirubin không liên hợp trong mật gia tăng, đây là trường hợp của huyết tán và trong xơ gan.
Sỏi sắc tố nâu: Màu nâu hoặc vàng nhạt, đây là hậu quả của giun chui ống mật và nhiễm khuẩn đường mật.
Sỏi muối mật: Thường có màu đỏ, cũng dễ kết hợp với canci.
Triệu chứng của bệnh sỏi mật
Triệu chứng phổ biến nhất là đau bụng, có thể kéo dài đến 8 giờ và ngày càng nghiêm trọng hơn.
Sỏi túi mật: Đây là loại sỏi có thể có một thời gian dài yên lặng. Khi có biểu hiện lâm sàng, triệu chứng chủ yếu là cơn đau quặn gan, đau dữ dội vùng hạ sườn phải, lan ra sau lưng và lên vai phải, đôi khi đau lan sang cả vùng thượng vị làm dễ nhầm tưởng là đau dạ dày. Cơn đau quặn gan kéo dài trên 15 phút đến 3 - 4 giờ, nếu trên 6 giờ phải nghĩ đến có biến chứng.
Nếu có hiện tượng tắc nghẽn thì túi mật ngày càng to dần lên, khi sờ vào có thể thấy túi mật căng phồng, ấn vào bệnh nhân rất đau, nếu không xử trí kịp thời có thể đưa đến viêm túi mật cấp tính, sẽ sốt cao 39 – 40oC.
Sỏi đường mật: Đây là loại sỏi có biểu hiện lâm sàng rất đa dạng, đau thường là do sự di chuyển của sỏi túi mật và sỏi đường mật trong gan. Thông thường có 3 triệu chứng rất điển hình (gọi là tam chứng Charco) tuần tự xuất hiện: đầu tiên là cơn đau quặn gan với biểu hiện như trên, sau đó xuất hiện sốt nóng và rét run. Cuối cùng là vàng da, vàng mắt, phân bạc màu, đi tiểu nước tiểu sẫm màu.
Ngoài những biểu hiện lâm sàng thì các xét nghiệm cận lâm sàng đặc biệt là siêu âm xét nghiệm cơ bản không xâm nhập giúp phát hiện sỏi 70 – 80%, ngoài ra còn giúp phát hiện tổn thương đường mật, túi mật, tụy.
Biến chứng của bệnh sỏi mật
Viêm và nhiễm khuẩn đường mật, túi mật cấp; hoại tử túi mật và thấm mật phúc mạc là biến chứng rất nguy hiểm phải can thiệp ngoại khoa và có thể để lại hậu quả nặng nề. Rò túi mật đường mật vào ống tiêu hóa và ứ nước túi mật. Xơ gan: biến chứng này xảy ra do ứ mật lâu ngày kèm viêm nhiễm làm tổn thương nhu mô gan và thay thế bằng tổ chức xơ.
Người có nguy cơ bị sỏi mật
Sỏi túi mật có thể gặp ở bất kể ai, người trẻ tuổi ít bị hơn. Những người sau đây thuộc nhóm có nguy cơ cao:
Người béo: vì sỏi liên quan đến vấn đề thừa cholesterol trong máu.
Phụ nữ dùng thuốc tránh thai có chứa estrogen.
Người có bệnh viêm đường ruột như bệnh Crohn, viêm loét đại tràng.
Cần làm gì khi nghi ngờ bị sỏi mật
Phải đi khám ở cơ sở y tế có đủ điều kiện để xác định xem có bị sỏi mật hay không, từ kết quả này bác sĩ sẽ có chỉ định điều trị và lời khuyên hợp lý.
Khi đã có chỉ định điều trị của bác sĩ, người bệnh cần tuân thủ theo hướng dẫn không được chủ quan.
Điều trị sỏi mật bao gồm điều trị nguyên nhân là loại bỏ sỏi đồng thời điều trị triệu chứng và biến chứng nếu có. Khi điều trị nội khoa có thể sử dụng các thuốc chống co thắt cơ trơn như atropin, papaverin, nospa, visceralgin...; các thuốc chống nhiễm khuẩn như nhóm aminoglycosid, nhóm quinolon...; nhóm thuốc làm tan sỏi như chenodex, ursolvan..., tuy nhiên khi dùng các thuốc này phải có chỉ định của bác sĩ chuyên khoa.
Khi điều trị nội khoa không có kết quả nên chuyển sang điều trị ngoại khoa với các kỹ thuật mới như tán sỏi qua da, lấy sỏi qua nội soi ngược dòng... đã mang lại nhiều lợi ích cho người bệnh
Dự phòng bệnh sỏi mật như thế nào?
Hạn chế ăn mỡ động vật, phủ tạng động vật, cẩn trọng khi dùng thuốc tránh thai...
Ăn uống hợp vệ sinh, định kỳ 6 tháng tẩy giun một lần.
Tập thể dục liệu pháp, xoa nắn cơ thành bụng vùng túi mật, có thể sử dụng thuốc nhuận mật như chophytol, sorbitol.