Hợp lực để phát triển hạ tầng giao thông
Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Văn Thể nhận định, trong những năm qua, tốc độ phát triển hạ tầng giao thông của vùng chậm hơn tốc độ phát triển kinh tế và đây là một nguyên nhân dẫn tới tốc độ tăng trưởng của vùng chậm lại.
Một góc Quận 2 với xa lộ Hà Nội và tuyến Metro số 1 Bến Thành - Suối Tiên. Ảnh tư liệu: Thanh Vũ/TTXVN |
Trong đó, TP Hồ Chí Minh là đô thị lớn nhất cả nước nhưng tất cả cửa ngõ của thành phố hiện nay đang ách tắc. Điều này cho thấy, TP Hồ Chí Minh đang thiếu những tuyến đường cao tốc kết nối với các tỉnh, thành phố trong khu vực. Giao thông liên vùng cũng bất cập khi đường Vành đai 2 rất quan trọng đối với TP Hồ Chí Minh nhưng đến thời điểm này vẫn chưa được khép kín. Đường Vành đai 3 vừa được Quốc hội thông qua chủ trương triển khai; đường Vành đai 4 chưa được quan tâm đúng mức...
Để giải quyết các bất cập trên, Bộ trưởng Giao thông vận tải cho rằng cần tập trung toàn bộ nguồn lực để phát triển hạ tầng giao thông cho khu vực. "Nếu chúng ta không làm điều này, đầu tàu kinh tế sẽ chạy chậm dần và có thể trở thành gánh nặng khi các khu vực khác phát triển hơn”, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể khuyến cáo.
Theo Bộ trưởng, trong nhiệm kỳ này, Quốc hội, Chính phủ đã quan tâm bố trí khoảng 120.000 tỷ đồng vốn ngân sách để đầu tư cho các dự án hạ tầng giao thông chiến lược trong vùng và liên vùng, cùng với đó là một số dự án hợp tác công tư (PPP).
Theo đó, từ nay tới năm 2025, sẽ hoàn thành đưa vào khai thác tuyến cao tốc Bến Lức - Long Thành, tuyến TP Hồ Chí Minh - Cần Thơ (đoạn Mỹ Thuận - Cần Thơ và cầu Mỹ Thuận 2), tuyến cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu; thu xếp nguồn vốn để khởi công các tuyến đường Vành đai 4, tuyến cao tốc TP Hồ Chí Minh - Mộc Bài, tuyến cao tốc TP Hồ Chí Minh - Thủ Dầu Một - Chơn Thành, tiếp tục đầu tư mở rộng tuyến cao tốc TP Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây.
Về các sân bay, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể cho biết, các cơ quan đang triển khai các giải pháp đồng bộ để nâng công suất sân bay Tân Sơn Nhất lên 50 triệu hành khách mỗi năm; đồng thời quyết liệt thúc đẩy dự án sân bay Long Thành để đưa vào khai thác giai đoạn 1 vào năm 2025 với 25 triệu khách.
Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể nhấn mạnh, các địa phương cần tập trung các nguồn lực để xây dựng nhiều tuyến đường giải quyết vấn đề ách tắc giao thông tại các cảng lớn trong vùng như Cái Mép - Thị Vải…; nâng cấp luồng hàng hải từ phao số 0 vào cụm cảng Cái Mép - Thị Vải, luồng Xoài Rạp; kêu gọi đầu tư các cảng biển, trung tâm logistic Cái Mép Hạ, các cảng cạn trong vùng để hình thành các trung tâm logistic lớn… Tinh thần là địa phương và Trung ương cùng hợp lực để giải quyết vấn đề giao thông của vùng.
Ưu phát triển công nghiệp công nghệ cao, logistics
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đánh giá, Đông Nam Bộ là vùng có vị trí địa chính trị, kinh tế thuận lợi nhưng lại tắc nghẽn hạ tầng giao thông, logistics. Cụ thể, chi phí logistics còn cao; chưa hình thành được các trung tâm logistics quy mô lớn có vai trò chuyển hàng hóa đa phương thức của vùng. Tắc nghẽn giao thông, yếu kém về cơ sở hạ tầng và thiếu sự kết nối, hợp tác liên kết vùng là những nút thắt trong phát triển của cả vùng hiện nay.
Theo Bộ trưởng Công Thương, Việt Nam hiện là 1 trong 20 quốc gia hàng đầu về thương mại quốc tế; đây là những lợi thế, nền tảng quan trọng để “đầu tàu” của nền kinh tế như vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và vùng Đông Nam Bộ thúc đẩy phát triển công nghệ cao và dịch vụ logistics.
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đề xuất, vùng cần đẩy nhanh việc xây dựng, hoàn thành Quy hoạch các tỉnh, thành phố và Quy hoạch vùng Đông Nam Bộ trên cơ sở phát huy tiềm năng, lợi thế so sánh, bảo đảm cân đối vùng, miền, phù hợp với các Quy hoạch ngành của quốc gia, trong đó xác định rõ việc ưu phát triển công nghiệp công nghệ cao, logistics, hạ tầng là điều kiện quan trọng, xu thế tất yếu để phát triển vùng, từng địa phương. Ngoài ra, cần thực hiện liên kết vùng trong phát triển các ngành công nghiệp, công nghệ cao và hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông; tạo cơ chế đột phá để xây dựng các tập đoàn mạnh về logistics; đổi mới công tác xúc tiến thương mại, đẩy mạnh phân phối hàng hóa qua nền tảng số và các kênh thương mại điện tử; đồng thời, tiếp tục khai thác hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do đã ký kết để đẩy mạnh xuất khẩu; phát triển các ngành công nghệ cao và dịch vụ logistics...
Nhanh chóng triển khai nhiệm vụ lập quy hoạch vùng Đông Nam bộ
TP Hồ Chí Minh giữ vai trò đầu tàu phát triển của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Ảnh: Thanh Vũ/TTXVN |
Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh Phan Văn Mãi cho rằng, vùng đang gặp nhiều thách thức, mà nghiêm trọng nhất là việc phát triển dưới mức tiềm năng, chưa phát huy tốt vai trò trung tâm kinh tế - xã hội của cả nước. Cụ thể: Tốc độ tăng trưởng chậm lại và chậm hơn tốc độ tăng trưởng chung của các nước; vai trò đầu mối xuất nhập khẩu giảm; hiệu quả sử dụng vốn luôn thấp nhất và thấp hơn so với bình quân của cả nước; kinh tế vùng giảm tỷ trọng trong cơ cấu kinh tế cả nước.
Riêng TP Hồ Chí Minh đóng góp đến trên 50% vào tăng trưởng của vùng. Trong những năm gần đây, việc Thành phố tăng trưởng chậm đã ảnh hưởng rất lớn đến tăng trưởng của vùng.
Phân tích về nguyên nhân của những thách thức này, Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh Phan Văn Mãi nhấn mạnh, thể chế hiện hành chưa đủ khuyến khích chính quyền địa phương chủ động, sáng tạo và tăng cường liên kết vùng, trong khi đó vai trò của Ban Chỉ đạo và Hội đồng vùng chưa được phát huy đúng mức. Quy hoạch vùng và từng địa phương đang tạo nên “lực kéo”, thay vì “lực đẩy” cho phát triển. Quy hoạch trùng lắp chức năng, dẫn đến cạnh tranh lẫn nhau, thiếu liên kết, thiếu phát huy thế mạnh, nỗ lực phát triển. Hạ tầng giao thông, đô thị không theo kịp và đang cản trở sự phát triển nhanh, bền vững của vùng. Định hướng chiến lược đặt mục tiêu lớn, nhưng nguồn lực đầu tư hạn chế, và chưa có các cơ chế hiệu quả thu hút nguồn lực từ xã hội…
Từ thực tiễn này, Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh đề xuất cần nhanh chóng triển khai nhiệm vụ lập quy hoạch vùng Đông Nam Bộ, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; hoàn thiện cơ chế liên kết, điều phối phát triển vùng và bộ máy giúp việc, có ban chỉ đạo, hội đồng vùng, có tổ giúp việc và kể cả tổ tư vấn; liên kết phát triển giao thông vùng, gồm đường bộ (vành đai, quốc lộ, cao tốc kết nối); đường thủy (hệ sông Sài Gòn, sông Đồng Nai, sông Vàm Cỏ; kết nối giữa vùng Đông Nam Bộ với Đồng bằng sông Cửu Long, Campuchia).
Đồng thời, cần tăng cường liên kết vùng trong vấn đề bảo vệ môi trường, bảo vệ các hệ sông; xử lý chất thải công nghiệp, sinh hoạt; thích ứng với biến đổi khí hậu; liên kết phát triển nguồn nhân lực và xây dựng thị trường lao động chung của vùng, gồm Trung tâm đại học - đào tạo nghề; trung tâm công nghiệp - dịch vụ nền tảng của thị trường lao động. Bên cạnh đó, vùng cần liên kết phát triển hạ tầng chuyển đổi số và xây dựng cơ sở dữ liệu vùng về kinh tế - xã hội, làm cơ sở hoạch định chiến lược, kế hoạch, chính sách phát triển và điều phối hoạt động liên kết .
Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh Phan Văn Mãi cũng đề nghị hoàn thiện cơ chế đặc thù phát triển Thành phố và đầu tư phát triển Thành phố để giữ vững vai trò đầu tàu của vùng và cả nước, tập trung đầu tư để TP Hồ Chí Minh là trung tâm tài chính khu vực, quốc tế; trung tâm logistics; trung tâm khoa học, đổi mới sáng tạo; trung tâm chăm sóc sức khỏe, đào tạo nhân lực khu vực, quốc tế...
Tạo liên kết chặt chẽ, thực chất và hiệu quả hơn
Phân tích nguyên nhân khiến vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cho rằng, đó là do thiếu quy hoạch hiện đại; tính liên kết, phối hợp trong vùng còn lỏng lẽo, chưa chặt chẽ; chưa có cơ chế điều hành toàn vùng; thiếu cơ chế huy động nguồn lực, nhất là nguồn lực ngoài nhà nước và cơ chế để phát huy tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh của vùng.
Do đó, Thủ tướng cho rằng, trong bối cảnh, yêu cầu mới, cần có một nghị quyết mới, với chủ trương, chính sách, cơ chế mới phù hợp với tình hình để tạo ra không gian phát triển mới, động lực, xung lực, khí thế mới phát triển vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Trong đó, cần có cơ chế điều hành, tổ chức thực hiện chung, phù hợp để tạo liên kết chặt chẽ, thực chất và hiệu quả hơn; thực hiện phân cấp, phân quyền mạnh mẽ hơn; nâng cao tính tự lực, tự cường của mỗi địa phương, đơn vị; có cơ chế thu hút mọi nguồn lực vào phát triển, trong đó đẩy mạnh cơ chế hợp tác công tư, lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư.
Thủ tướng nhấn mạnh, để phát triển vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam phải thực hiện 3 đột phá chiến lược theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng gồm phát triển hạ tầng, nhất là về hạ tầng giao thông; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đảm bảo nguồn lao động có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu; thực hiện đột phá về thể chế, cải cách hành chính.
Thủ tướng đề nghị các bộ, ngành chủ động cùng với các tỉnh, thành phố trong vùng tích cực xử lý các vướng mắc, rào cản và các vấn đề nổi lên. “Chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước đã rất rõ; các bộ, ngành, địa phương phải căn cứ chức năng, nhiệm vụ tổ chức thực hiện; đồng thời kịp thời phát hiện những vướng mắc, xác định chủ thể để giải quyết; vừa làm vừa rút kinh nghiệm, không cầu toàn, không nóng vội; mạnh dạn đề xuất cơ chế chính sách căn cứ thực tiễn; phát huy tính chủ động của các địa phương, song huy động sức mạnh tổng hợp của cả vùng”, Thủ tướng nhấn mạnh.
Người đứng đầu Chính phủ chỉ rõ, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp; kinh tế, thương mại toàn cầu phục hồi chưa vững chắc; dịch bệnh còn khó lường. Biến đổi khí hậu ngày càng tiêu cực; an ninh mạng ngày càng phức tạp; thách thức về trình trạng cạn kiệt tài nguyên, già hóa dân số, phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ... Trong bối cảnh đó, việc thúc đẩy phát triển vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam phải góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động hội nhập thực chất, hiệu quả.