Việt Nam được xếp hạng 46/132 quốc gia, nền kinh tế, tăng 2 bậc so với năm 2022. Cũng theo tổ chức này, Việt Nam là một trong 7 quốc gia thu nhập trung bình đạt được nhiều tiến bộ nhất về đổi mới sáng tạo trong thập kỷ qua. Việt Nam cũng là một trong 3 quốc gia (cùng với Ấn Độ và Moldova) giữ kỷ lục có thành tích vượt trội so với mức độ phát triển trong 13 năm liên tiếp.
Những thành tựu này là minh chứng cho thấy chính sách phát triển đội ngũ trí thức, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học công nghệ của Đảng và Nhà nước ta những năm qua đã đi đúng hướng, tạo được dấu ấn nổi bật trong quá trình phát triển bền vững đất nước.
Trải qua 15 năm, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 6/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước- Nghị quyết chuyên đề đầu tiên của Đảng về công tác trí thức đã thể hiện rõ tính hiệu quả trong thu hút, trọng dụng nhân tài. Cùng với đó, nâng cao nhận thức toàn xã hội về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Theo Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Hoàng Giang, sau 15 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW, đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ, các bộ, ngành, địa phương các cấp đã triển khai nhiều văn bản pháp luật, chương trình, đề án xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức theo ngành, lĩnh vực khác nhau, đóng góp to lớn đối với sự phát triển ngành khoa học và công nghệ.
Từ đó, nâng cao nhận thức xã hội, xây dựng và phát triển đất nước, đạt được những thành quả nổi bật. Tiêu biểu như: Tốc độ tăng trưởng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt 5,8% (cao hơn mức 4,3% năm của giai đoạn 2011 - 2015). Tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa tăng từ 19% năm 2010 lên khoảng 50% năm 2020.
Hệ sinh thái Việt Nam bắt đầu hình thành và phát triển với khoảng hơn 3.000 doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cùng số lượng vốn được công bố đầu tư vào các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đạt gần 1 tỷ USD, đưa Việt Nam trở thành quốc gia năng động thứ 3 ASEAN về khởi nghiệp sáng tạo. Hệ thống sở hữu trí tuệ và tiêu chuẩn đo lường chất lượng ngày càng được hoàn thiện cũng góp phần không nhỏ trong hoạt động nghiên cứu sáng tạo, nâng cao sức cạnh tranh hàng hóa của đất nước trong thời kỳ hội nhập,…
Khoa học cơ bản cũng đạt được nhiều thành tựu, thể hiện qua các chỉ số xếp hạng, công bố quốc tế. Số lượng bài báo công bố quốc tế ISI của Việt Nam trong giai đoạn 2016 - 2020 tăng trung bình 20%. Riêng trong năm 2020, công bố quốc tế của Việt Nam tăng 45% so với năm 2019.
Bên cạnh đó, nguồn lực tài chính từ xã hội cho khoa học - công nghệ tăng mạnh. Tỷ trọng đầu tư giữa Nhà nước và doanh nghiệp được cải thiện theo chiều hướng tích cực. Nếu 10 năm trước đây, kinh phí hoạt động khoa học - công nghệ chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước (chiếm khoảng 70% - 80% tổng đầu tư cho khoa học - công nghệ), thì nay đầu tư từ ngân sách nhà nước và từ doanh nghiệp đã tương đối cân bằng, với tỷ lệ tương ứng là 52% và 48%.
Hệ thống các tổ chức khoa học - công nghệ phát triển mạnh, đội ngũ nhân lực khoa học - công nghệ phát triển cả về số lượng và chất lượng với khoảng 72.990 cán bộ nghiên cứu tương đương toàn thời gian (đạt 7,6 người/vạn dân), trong đó, có nhiều nhà khoa học uy tín, được thế giới công nhận. Hệ thống sở hữu trí tuệ và tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng ngày càng hoàn thiện, góp phần khuyến khích hoạt động nghiên cứu sáng tạo trong nước, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, nâng cao chất lượng, khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa.
Tuy nhiên, Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Giang cũng thẳng thắn chỉ ra những tồn tại, hạn chế, bất cập trong đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ của nước ta hiện nay. Đó là về ngành nghề, độ tuổi, giới tính, thiếu các tập thể khoa học mạnh, thiếu các cán bộ đầu ngành có khả năng dẫn dắt các hướng nghiên cứu mới…
Khẳng định trí thức khoa học và công nghệ được hiểu là một bộ phận hợp thành của đội ngũ trí thức Việt Nam, có vai trò quyết định đẩy nhanh tiến trình thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Giang cho rằng, để khoa học và công nghệ trở thành động lực phát triển đất nước, cần phải có các hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, ứng dụng, chuyển giao khoa học và công nghệ của đội ngũ trí thức, đặc biệt là trong bối cảnh cách mạng khoa học công nghệ và cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư.
Chia sẻ quan điểm về công tác xây dựng đội ngũ trí thức, trọng dụng nhân tài, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt khẳng định, trọng dụng nhân tài là vấn đề cốt lõi, cần lưu tâm; cần tập trung xây dựng đội ngũ nhân lực chất lượng cao gồm các nhà khoa học đầu ngành; các nhà khoa học chủ trì các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học quan trọng của đất nước, đặc biệt là đội ngũ cán bộ nghiên cứu trẻ. Đây là nhiệm vụ quan trọng, cần có sự phối hợp của ngành Giáo dục và Đào tạo cùng ngành Khoa học và Công nghệ.