Marhabo Jumaboeva là một công dân Uzbekistan. Hiện cô đang sống cùng hai con với tư cách là một bà mẹ đơn thân ở thành phố Incheon. Cô ly hôn với người chồng bản xứ vào năm 2016, sau 9 năm chung sống. Nguyên nhân chính được cho là do mẹ chồng đã quá bênh vực con trai và coi thường Jumaboeva vì cô là người nước ngoài.
"Tôi không hối hận về sự lựa chọn của mình. Nhưng vụ ly hôn, một sự kiện bất thường trong cuộc sống, đang mang lại nhiều khó khăn cho tôi và các con", Jumaboeva chia sẻ.
Vì chồng cũ từ chối cấp dưỡng nên Jumaboeva đành phải một mình lo cho cậu con trai 13 và cô con gái 12 tuổi.
Cô từng là giáo viên văn hóa tại một số trường học địa phương. Nhưng những lớp học như thế đã phải đóng cửa kể từ khi đại dịch bùng phát. Bây giờ, với khoản trợ cấp cơ bản chỉ hơn 1 triệu won /tháng (khoảng hơn 20 triệu đồng), Jumaboeva và các con gần như không đủ sống.
Làm mẹ đơn thân không phải điều dễ dàng ở Hàn Quốc, và với những người ngoại quốc như Jumaboeva, khó khăn còn nhân lên gấp bội.
“Mặc dù tôi là mẹ của hai đứa trẻ mang quốc tịch Hàn Quốc, nhưng tôi không cảm thấy mình được coi như một thành viên của xã hội này. Vì vấn đề quốc tịch, tôi thường xuyên bị từ chối trợ cấp”, bà mẹ 38 tuổi tâm sự.
Bị từ chối quyền hưởng trợ cấp xã hội vì sở hữu quốc tịch nước ngoài là lý do vì khiến Jumaboeva tìm mọi cách để được nhập tịch Hàn Quốc. Điều mà cô đã không có được trong suốt 9 năm hôn nhân và 4 năm đơn độc nuôi con. Bất chấp mọi nỗ lực cùng vô số cuộc tham vấn với các luật sư, hồ sơ của cô luôn bị từ chối.
Các nhà hoạt động địa phương đang đòi hỏi quyền lợi cho những người phụ nữ nước ngoài kết hôn với đàn ông Hàn Quốc. Ảnh: Yonhap |
Theo Bộ Tư pháp Hàn Quốc, những người nhập cư trở thành cha/mẹ đơn thân sau khi đã ly hôn với vợ/chồng là người Hàn Quốc phải có tối thiểu 2 năm sinh sống tại nước này trước khi nộp đơn xin nhập tịch.
Cùng với đó, họ phải hoàn thành 70 giờ học của Chương trình hội nhập xã hội Hàn Quốc (KIIP – Korea Immigration & Integration Program), cũng như vượt qua bài kiểm tra đánh giá kiến thức ngôn ngữ và văn hóa Hàn.
Một yêu cầu không kém phần quan trọng khác là phải chứng minh được khả năng độc lập về tài chính, thể hiện ở việc có thu nhập ổn định hàng tháng cùng một khối tài sản nhất định. Nhưng để đáp ứng được yêu cầu như trên là điều không tưởng đối với Jumaboeva. Cô cùng các con đã rơi vào diện gia đình có thu nhập thấp, cần sự hỗ trợ của chính phủ ngay sau khi cuộc hôn nhân với người chồng cũ chấm dứt.
Theo một số nhà hoạt động vì người nhập cư, việc yêu cầu những người nước ngoài đã ly hôn với người Hàn Quốc phải chứng minh họ có thu nhập ổn định chính là nguyên nhân khiến họ không thể nhập tịch.
“Đại đa số những người nước ngoài đã ly hôn đều đang cần đến trợ cấp xã hội do khó khăn về tài chính và tình trạng pháp lý không ổn định. Nếu muốn ổn định tình hình bằng cách nhập quốc tịch, họ lại buộc phải quay lại chứng minh những điều đó”, bà Hwang Sun Young, người đứng đầu tổ chức Global Unite chuyên ủng hộ cha mẹ đơn thân nước ngoài tại Hàn Quốc, cho biết.
Theo bà Hwang, sự mâu thuẫn trên cho thấy những người nước ngoài không khuyến khích hay hỗ trợ nhập tịch.
"Nếu không có tình trạng pháp lý ổn định, những người này sẽ sống trong nỗi sợ hãi rằng họ sẽ phải rời khỏi Hàn Quốc một khi con cái họ lớn lên", bà Hwang chỉ ra.
Lee Jae Ho, một luật sư bảo vệ lợi ích của người nhập cư cho rằng chính phủ Hàn Quốc "dường như không hiểu hết tình cảnh khó khăn mà những người nước ngoài đã ly hôn đang gặp phải”.
"Bộ Tư pháp cho rằng những người nước ngoài tới kết hôn và sinh sống tại Hàn Quốc trong một thời gian dài thì hẳn nhiên sẽ có trình độ tiếng Hàn ở mức cao. Nhưng thực tế thì khác xa với tưởng tượng của họ", luật sư Lee nói.
Ông Lee giải thích, hầu hết các cặp vợ chồng có quốc tịch nước ngoài phải dành phần lớn thời gian để chăm sóc con cái và lao động, điều này khiến họ có rất ít thời gian để học tiếng Hàn. Đa số những người đang đi làm thường có công việc trong các nhà máy hoặc trang trại, vốn là những nơi không yêu cầu trình độ tiếng Hàn lý tưởng.
Cả bà Hwang và ông Lee đều tin rằng chính phủ nên tạo điều kiện thuận lợi cho những bậc cha mẹ đơn thân người nước ngoài, thay vì chỉ đơn giản là sửa đổi hệ thống thị thực, như đã từng tuyên bố vào tháng 12 năm ngoái.
Vào ngày 22/12/2020, Bộ Tư pháp Hàn Quốc cho biết những người có quốc tịch nước ngoài từng kết hôn với công dân Hàn Quốc, hiện đang trở thành cha mẹ đơn thân do ly hôn, sẽ có điều kiện được cấp thị thực F-2 cư trú (gia hạn 3 năm 1 lần) nếu đáp ứng các yêu cầu như: trình độ tiếng Hàn cấp 4 và mức thu nhập ổn định để không phải yêu cầu sự hỗ trợ từ chính phủ
Trước đây, nếu cha mẹ đơn thân chưa có quốc tịch Hàn Quốc vào thời điểm con cái đủ tuổi trưởng thành, họ sẽ được cấp thị thực F-1 để thăm nom gia đình. Nhưng thị thực này không đảm bảo cho họ một tình trạng pháp lý ổn định. Họ có thể bị trục xuất và không được quyền làm việc tại Hàn Quốc.
“Việc cấp thị thực phải gia hạn 2 hoặc 3 năm một lần chưa phải là biện pháp lâu dài để giúp cha mẹ đơn thân nước ngoài hòa nhập vào xã hội Hàn Quốc”, bà Hwang Sun Young cho biết, nhấn mạnh rằng việc nhập tịch mới giải quyết những cuộc đấu tranh và làm an lòng nhóm này.
Bộ Tư pháp Hàn Quốc tỏ ra lo ngại rằng việc nới lỏng các yêu cầu về cấp quyền công dân có thể dẫn đến những trường hợp lạm dụng chính sách. Dù vậy, các nhà hoạt động không đồng ý và cho rằng chính quyền nên làm việc trực tiếp cùng những bậc cha mẹ đơn thân ngoại quốc để cải thiện hệ thống đánh giá.
Trong đó, cần xem xét đến các vấn đề như thời gian những người này dành ra để nuôi dạy con cái hay dự định về phần đời còn lại của họ tại Hàn Quốc.
“Thay vì áp đặt các yêu cầu trừu tượng như 'thời gian lưu trú', 'kỹ năng ngôn ngữ' hoặc 'mức thu nhập', chính phủ nên đánh giá toàn diện mức độ hòa nhập xã hội và mối quan hệ của những người ngoại quốc với con cái của họ”, luật sư Lee Jae Ho góp ý.