Các di tích ở thành phố linh thiêng của vương quốc Elamite, bao quanh bởi ba bức tường đồng tâm rất lớn, được tìm thấy ở Chogha Zanbil. Tên hiện tại của Chogha Zanbil tương ứng với thành phố cổ xưa của Dur Untash. Thành phố được xây dựng như là một thủ đô tôn giáo trong thời gian Elamite Untash-Napirisha (1275-1240 trước công nguyên).
Chogha Zanbil xây dựng vào khoảng năm 1250 trước Công nguyên bởi vua Untash-Napirisha, nhằm tôn vinh thần Inshushinak, một trong những vị thần của Elamite, người bảo về Susa. Tên ban đầu của Chogha Zanbil là Dur Untash, có nghĩa là "thị trấn Untash", nhưng không có nhiều người sinh sống tại đây, ngoại trừ các linh mục từng sống ở đó.
Khu phức hợp được bảo vệ bởi ba bức tường đồng tâm. Khu vực trên cùng được hoàn toàn để dành riêng cho vị thần chính là thần Inshushinak, được xây dựng trên một ngôi đền vuông trước đó với các phòng lưu trữ cũng được xây dựng bởi Untash-Napirisha.
Khu vực ở giữa bao gồm 11 đền thờ cho thần khác. Người ta tin rằng, 12 ngôi đền được xây dựng nằm trong kế hoạch ban đầu, nhưng nhà vua đã băng hà trước khi công trình được hoàn thành, và người kế nhiệm ông đã không tiếp tục công việc xây dựng. Khu vực bên ngoài là một cung điện hoàng gia, cùng với 5 ngôi mộ hoàng gia dưới lòng đất.
Mặc dù việc xây dựng trong thành phố đột ngột chấm dứt sau cái chết của vua Untash-Napirisha, nhưng nơi đây đã không bị bỏ rơi cho đến khi nó đã bị phá hủy bởi vua Ashurbanipal của Assyria năm 640 trước Công nguyên. Một số học giả suy đoán rằng, dựa trên số lượng lớn các đền thờ và khu bảo tồn tại Chogha Zanbil, có thể thấy Untash-Napirisha đã cố gắng để tạo ra một trung tâm tôn giáo mới (có thể dùng để thay thế cho vùng Susa - thành phố cổ đại của đế chế Elamite, Ba Tư và Parthia, nằm cách sông Tigris 250km về phía Nam, hiện thành phố trở thành thị trấn Shush của Iran.)
Vật liệu xây dựng chính tại Chogha Zanbil là gạch bùn và gạch nung. Các ngôi đền được trang trí bằng gạch nung tráng men, thạch cao, đồ sứ trang trí và thủy tinh. Các tòa nhà quan trọng nhất thì tại cách bức tường bằng gạch nung đều mang dòng chữ và nhân vật được ghi bằng tay. Các bức tượng đất nung tráng men như con bò đực và điểu sư (mình sư tử, đầu và cánh của đại bàng) bảo vệ các lối vào. Gần các ngôi đền Kiririsha và Hishmitik-Ruhuratir, lò nung được phát hiện cho thấy các ziggurat được xây dựng trong hai giai đoạn và chủ yếu hình dáng của nó được hình thành ở giai đoạn thứ hai.
Các kim tự tháp ziggurat Chogha Zanbil được coi là ví dụ điển hình và bảo quản tốt nhất trên thế giới. Nó được khai quật trong giai đoạn từ 1951 và 1961 bởi nhà khảo cổ học Roman Ghirshman.
Di chỉ khảo cổ Chogha Zanbil là một biểu tượng đặc biệt của các nền văn hóa, tín ngưỡng, và truyền thống nghi lễ của một trong những cộng đồng cư dân bản địa lâu đời nhất của Iran, góp phần thay đổi bộ mặt của thế giới văn minh thời bấy giờ. Trong năm 1979, Chogha Zanbil trở thành địa danh đầu tiên của Iran được UNESCO công nhận là một Di sản thế giới của nhân loại.