Phát biểu trước báo giới, ông Macron tuyên bố rằng lợi ích của châu Âu và Mỹ đang có sự khác biệt, đặc biệt là trong cách tiếp cận của hai bên đối với châu Á.
“Điều tồi tệ nhất đối với châu Âu là ngay khi chúng ta cuối cùng đã làm rõ được vị trí chiến lược của mình, thì cuối cùng chúng ta lại bị kéo vào một thế giới đầy khủng hoảng không phải của chính chúng ta”, ông Macron tuyên bố.
Người Mỹ tiếp nhận những lời bình luận của ông Macron với sự hoảng hốt. Chính quyền Biden đã nỗ lực xây dựng hình ảnh về sự thống nhất của phương Tây dưới sự lãnh đạo ổn định của Mỹ. Tuy nhiên, phát biểu của Tổng thống Pháp đã làm gia tăng cuộc tranh luận sôi nổi về việc liệu Mỹ có nên tìm cách lôi kéo các quốc gia châu Âu vào cuộc cạnh tranh với Trung Quốc, hay thay vào đó nên giảm bớt vai trò lãnh đạo của mình trong việc bảo vệ châu Âu để ưu tiên cho các nhu cầu an ninh ở châu Á.
Đối với nhiều nhà phân tích ở Washington, động thái thứ hai sẽ là một sai lầm đắt giá. Theo nhà khoa học chính trị Michael Mazarr, việc hạ thấp đáng kể các cam kết quốc phòng của Mỹ ở châu Âu sẽ “xác thực bức tranh ảm đạm mà Trung Quốc và Nga hiện đang vẽ ra về một nước Mỹ tư lợi và làm ăn một cách tàn nhẫn, đồng thời sẽ làm suy yếu nghiêm trọng những nỗ lực dày công của Mỹ nhằm xây dựng danh tiếng là cường quốc hiếm hoi mang đến cho thế giới thứ gì đó khác ngoài tham vọng trần trụi".
Đây là điệp khúc phổ biến của những người tin rằng bất kỳ sự rút lui có ý nghĩa nào của Mỹ khỏi châu Âu, rất có thể liên quan đến việc các quốc gia khác đứng lên gánh vác phần lớn gánh nặng quốc phòng, sẽ cắt đứt quan hệ của Mỹ với "lục địa già" và thậm chí cả thế giới. Họ lập luận rằng việc rút lui là cực kỳ rủi ro, sẽ tiết kiệm được ít tiền và có thể phá hủy sự hợp tác rộng lớn hơn giữa Mỹ và châu Âu.
Mối bận tâm này là quá mức. Nó dựa trên sự lạc quan thái quá về khả năng của Mỹ trong việc ngăn chặn cả Trung Quốc và Nga một cách vô thời hạn và dựa trên sự bi quan không có cơ sở về quỹ đạo của một châu Âu có năng lực hơn.
Trên thực tế, các quốc gia ở cả hai bờ Đại Tây Dương sẽ được hưởng lợi từ việc chuyển giao phần lớn trách nhiệm bảo vệ châu Âu cho chính người châu Âu, cho phép Mỹ chuyển sang vai trò hỗ trợ. Kết quả có nhiều khả năng là một mối quan hệ đối tác xuyên Đại Tây Dương cân bằng và bền vững hơn là một cuộc "ly hôn" xuyên Đại Tây Dương. Trong khi đó, giải pháp thay thế là gắn bó với hiện trạng đang xấu đi ngăn chặn khả năng phòng thủ của châu Âu và ngày càng đòi hỏi nhiều hơn ở Washington.
Dàn trải quá mỏng
Những lập luận nhằm cắt giảm các cam kết của Mỹ đối với châu Âu không có gì mới. Năm 1959, Tổng thống Dwight Eisenhower đã phàn nàn rằng, bằng cách từ chối thay thế lực lượng quân sự của Mỹ bằng lực lượng bản địa, các thành viên châu Âu của NATO đang tiến gần đến việc “biến chú Sam thành kẻ ngu xuẩn”.
Các nhà hoạch định chính sách trong các chính quyền kế tiếp, cả Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ, đều bày tỏ mối quan ngại tương tự. Tuy nhiên gần đây, cuộc tranh luận đã được định hình lại bởi sự liên kết giữa những người theo chủ nghĩa diều hâu “châu Á trên hết” với những người theo chủ nghĩa hiện thực về chính sách đối ngoại, những người ủng hộ sự kiềm chế chiến lược.
Phe diều hâu, bận tâm đến sự trỗi dậy của Trung Quốc, lo sợ rằng các cam kết của Mỹ ở châu Âu có thể làm suy yếu các ưu tiên ở châu Á. Mặt khác, những người theo chủ nghĩa hiện thực từ lâu đã tranh luận về việc Mỹ rút lui khỏi châu Âu vì lý do địa chính trị và ngân sách.
Trường hợp phòng thủ của châu Âu rất đơn giản: với sự trỗi dậy của Trung Quốc và sự tăng cường đối đầu Trung-Mỹ, Washington sẽ thu được ít và hy sinh nhiều bằng cách đóng vai trò là nhà cung cấp an ninh chính cho các nước châu Âu có đủ khả năng tài trợ cho nền quốc phòng của chính họ trước nước Nga.
Nếu bất cứ điều gì xảy ra, màn thể hiện kém thuyết phục của quân đội Nga ở Ukraine cho thấy rằng việc rút lui của Mỹ có thể đạt được nhiều hơn so với suy nghĩ trước đây.
Chuyên gia Michael Mazarr lại không đồng tình với đánh giá này. Ông tuyên bố rằng các cam kết của Mỹ đối với châu Âu và châu Á đòi hỏi ít sự đánh đổi thực tế và việc Mỹ rút bớt quân ở châu Âu sẽ khó tiết kiệm được bất kỳ khoản tiền nào. Mazarr đi đến những kết luận này bằng cách giả định rằng điều quan trọng là liệu sự hiện diện quân sự trong thời bình của Mỹ có bền vững hay không. Khả năng thất bại trong việc răn đe ở châu Âu hoặc châu Á phần lớn bị loại khỏi phân tích của ông.
Mazarr có lẽ đã đúng khi cho rằng sự hiện diện đáng kể trong thời bình ở cả hai châu lục là khả thi trong thời gian ngắn. Nhưng chiến tranh ở ít nhất một khu vực là một khả năng có thật và đang gia tăng.
Xung đột trực tiếp với Trung Quốc hoặc Nga đã trở nên dễ xảy ra hơn trong những năm gần đây và có một khoảng cách khá lớn giữa lời lẽ của các nhà lãnh đạo Mỹ và khả năng quân sự của nước này. Mặc dù các nhà hoạch định chính sách nói về việc ngăn chặn cả Trung Quốc và Nga vô thời hạn, Chiến lược Quốc phòng Quốc gia của Mỹ năm 2018 đã từ bỏ kế hoạch để nước này duy trì các lực lượng đủ để chiến đấu ở hai khu vực, chứ chưa nói đến việc chống lại hai cường quốc cùng một lúc.
Ngày nay, quân đội Mỹ không có khả năng tiến hành các hoạt động toàn diện chống lại Trung Quốc và Nga cùng một lúc. Các đối thủ của Mỹ biết điều này và kiến thức đó có thể khuyến khích họ thách thức các cam kết của Washington. Nói cách khác, răn đe thời bình và phòng thủ thời chiến có mối liên hệ với nhau.
Phòng thủ không đầy đủ làm suy yếu khả năng răn đe, vì vậy kế hoạch hòa bình không thể tách rời kế hoạch chiến tranh. Nhận thức được nguy cơ ngày càng tăng kể từ khi Nga đưa quân sang Ukraine vào tháng 2 năm 2022, các đồng minh của Mỹ ở cả châu Âu và châu Á đã kêu gọi Washington dành nhiều nguồn lực hơn cho các khu vực của họ.
Sẽ khó có khả năng Trung Quốc thống nhất Đài Loan trong tương lai gần, miễn là Đài Loan không tuyên bố độc lập và Mỹ không coi hòn đảo này là hòn đảo tách biệt vĩnh viễn với đại lục. Tuy nhiên, sẽ là thiển cận nếu bỏ qua những rủi ro trung và dài hạn.
Một cuộc khủng hoảng trong tương lai đối với Đài Loan hoặc quần đảo Điếu Ngư/Senkaku gần đó có thể đột ngột kéo Mỹ ra khỏi châu Âu. Tình huống như vậy có thể tạo cơ hội cho Nga thách thức hoặc xung đột với các nước láng giềng. Tin tưởng vào việc Mỹ luôn có thể và sẵn sàng dành các nguồn lực bổ sung đáng kể cho châu Âu, nếu chiến tranh nổ ra, chính là đặt tất cả "trứng" của liên minh xuyên Đại Tây Dương vào một cái giỏ vốn đã quá tải.
Rất may, không ai cần phải đánh cược như vậy. Các quốc gia châu Âu của NATO và EU sở hữu sức mạnh quân sự tiềm tàng lớn hơn rất nhiều so với khả năng của Nga. Theo Ngân hàng Thế giới, Liên minh châu Âu có GDP lớn hơn 9 lần so với GDP của Nga vào năm 2021 và cuộc chiến ở Ukraine đã nới rộng khoảng cách hơn nữa.
Ngay cả chi tiêu quân sự của các thành viên EU cũng đã lớn hơn gần 4 lần so với Nga và EU có dân số gần gấp 3 lần Nga. Hơn nữa, các lực lượng của Moscow đã bị suy yếu do cuộc xung đột ở Ukraine, tạo cho châu Âu một cơ hội duy nhất để chuyển đổi các nguồn lực của mình thành các biện pháp phòng thủ hiệu quả và có phối hợp.
Khi xem xét khả năng xảy ra chiến tranh ở châu Âu, ông Mazarr nhấn mạnh đến cái giá phải trả đối với mức độ cam kết hiện tại của Mỹ đối với an ninh của khu vực. Vị chuyên gia lập luận rằng ngay cả khi Mỹ lùi bước ngay bây giờ, một cuộc chiến ở châu Âu sẽ kéo họ trở lại, do đó vô hiệu hóa lợi ích của việc cắt giảm quân số đồn trú ngay từ đầu.
“Mỹ đã chuyển hướng cuộc chiến hiện tại ở Ukraine mà không tham chiến trực tiếp, bằng cách cung cấp vũ khí, huấn luyện và thông tin tình báo cho Kiev. Nếu Nga tấn công một thành viên của NATO, Mỹ sẽ giữ lại một loạt các lựa chọn trả đũa. Điều V của NATO yêu cầu các thành viên của mình thực hiện “hành động mà họ cho là cần thiết, bao gồm cả việc sử dụng lực lượng vũ trang, để khôi phục và duy trì an ninh của khu vực Bắc Đại Tây Dương", ông Mazarr cho biết.
Tình thế sẽ không yêu cầu Mỹ tham gia cuộc chiến ngay từ đầu, càng không cần phải chiến đấu theo bất kỳ cách cụ thể nào. Nếu châu Âu có thể làm nhiều hơn để tự bảo vệ mình, thì Hoa Kỳ có thể làm ít hơn, có khả năng ít hơn nhiều trong những thập kỷ tới.
Trên hết, mối đe dọa từ Nga cần được đánh giá chính xác và không được thổi phồng. Trong tương lai gần, Nga sẽ thiếu sức mạnh quân sự và nguồn lực kinh tế để đe dọa lục địa châu Âu và do đó đe dọa các lợi ích sống còn của Mỹ.
Do Nga không thể trở thành bá chủ châu Âu nên Washington cần phát triển các lựa chọn chính sách thực tế tương xứng với mối đe dọa gây ra cho lợi ích của Mỹ. Washington có thể vẫn là một đồng minh NATO mang tính xây dựng với sự hiện diện chủ yếu của quân đội ngoài khơi.
Hoành tất xoay trục châu Á
Ngay cả khi biện pháp ngăn chặn thành công ở cả hai châu lục trong thời điểm hiện tại, việc duy trì hiện trạng sẽ tạo ra sự đánh đổi đáng kể.
Ông Mazarr lập luận rằng cần có các loại lực lượng và hệ thống vũ khí khác nhau ở châu Âu, nơi cần có quân đội và xe tăng trên bộ, và châu Á, nơi cần sự hỗ trợ trên biển và trên không.
Mỹ sẽ không bố trí các sư đoàn thiết giáp dọc theo chuỗi đảo Thái Bình Dương. Bởi vì khả năng Trung Quốc đưa quân sang Đài Loan vẫn còn thấp, nên không cần thiết phải ngay lập tức cắt giảm viện trợ cho Ukraine để tăng cường cung cấp hàng hóa ở châu Á, như một số người ưu tiên châu Á đề xuất, chẳng hạn như nhà phân tích quốc phòng Elbridge Colby, đã thúc giục Washington làm như vậy.
Tuy nhiên, một số nền tảng vũ khí quan trọng nhất đang được "thèm khát" ở cả hai khu vực và phải đối mặt với tình trạng tắc nghẽn sản xuất. Trong khi các lô hàng vũ khí hiện tại đến Ukraine chủ yếu đến từ kho dự trữ của Mỹ, việc mua sắm trong tương lai sẽ dựa vào khả năng thực hiện các đơn đặt hàng của các nhà sản xuất vũ khí Mỹ.
Điều này có thể khiến nhu cầu của châu Á và châu Âu xung đột. Lực lượng không quân có khả năng bị đánh thuế quá mức do nhu cầu ngày càng tăng từ cả hai chiến trường về tiếp nhiên liệu trên không và vận chuyển, cũng như khả năng tình báo, giám sát và trinh sát.
Các ưu tiên chiến lược cuối cùng sẽ quyết định cách Mỹ tổ chức các lực lượng của mình và loại vũ khí nào mà họ chọn mua. Nếu châu Á luôn được coi là khu vực quan trọng nhất đối với các lợi ích của Mỹ, thì Lầu Năm Góc sẽ ưu tiên mua sắm các hệ thống và thiết kế lực lượng được tối ưu hóa cho các cuộc xung đột ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
Điều này có nghĩa là Washington sẽ dành ít nguồn lực hơn cho những khí tài phù hợp với châu Âu (hoặc Trung Đông). Tương tự như vậy, sức mạnh tương đối của các quân chủng sẽ được xác định bởi các ưu tiên chiến lược và cách chúng định hình ngân sách quốc phòng.
Về lâu dài, nhu cầu quốc phòng của châu Âu sẽ cạnh tranh với nhu cầu của châu Á. Ông Mazarr cho rằng chi phí tài chính trực tiếp để duy trì các lực lượng hiện tại của Mỹ ở châu Âu là tương đối nhỏ so với tỷ lệ của ngân sách quốc phòng tổng thể, nhưng đây là cách hạch toán có chọn lọc.
Chi phí thực sự cho sự hiện diện của Mỹ bao gồm chi phí cơ hội của việc điều hướng mua sắm và bố trí nhân lực. Ngay cả khi Quốc hội chi nhiều tiền hơn đáng kể cho quốc phòng, điều này sẽ chỉ giảm thiểu sự đánh đổi hơn là giải quyết nó. Trong mọi trường hợp, những khoản chi tiêu như vậy sẽ phải trả giá bằng những nhu cầu cấp thiết trong nước và kéo theo rủi ro chính trị thực sự.
Ngoài ra, sự hiện diện quân sự vượt trội của Mỹ từ lâu đã cản trở sự phát triển của các năng lực phòng thủ nội địa của châu Âu và cản trở sự hợp tác quốc phòng giữa các quốc gia châu Âu. Kết quả này không chỉ là sản phẩm phụ của chính sách Mỹ: đó là một mục tiêu.
Khi châu Âu củng cố hệ thống an ninh sau Chiến tranh Lạnh, chính quyền George H.W. Bush và Clinton tìm cách ngăn cản các đồng minh sao chép năng lực quân sự hoặc thay thế vai trò lãnh đạo của Mỹ trong NATO.
Các quan chức Mỹ mong muốn duy trì ưu thế quân sự của mình, lo lắng rằng các quốc gia châu Âu không tjể tin tưởng để quản lý công việc của chính họ. Nhưng ngày nay, thời kỳ đơn cực đã qua và Mỹ phải đối mặt với một kẻ thách thức đang trỗi dậy ở châu Á, những vấn đề ở những nơi khác, và sự bất mãn ở trong nước. Một sự điều chỉnh là cần thiết. Gánh nặng phòng thủ xuyên Đại Tây Dương sẽ bắt đầu thay đổi ngay bây giờ. Thật khó để hình dung những hoàn cảnh tốt hơn để làm như vậy và rất dễ hình dung ra những hoàn cảnh tồi tệ hơn nhiều về sau.
Đi hay ở?
Những lời chỉ trích về sự "phân công lao động" xuyên Đại Tây Dương thường dựa trên ba lập luận. Đầu tiên là sự phân chia như vậy nên được tổ chức theo vấn đề hơn là theo địa lý.
Chuyên gia Mazarr gợi ý rằng Mỹ nên hướng đến các đồng minh châu Âu của mình để đảm nhận vai trò tích cực trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, ngay cả khi họ có những đóng góp khiêm tốn. Nhưng sẽ chẳng có ý nghĩa gì khi mong đợi các quốc gia châu Âu phân bổ các nguồn lực khan hiếm sang bên kia thế giới trong khi họ vẫn phụ thuộc vào Mỹ, một cường quốc Thái Bình Dương, để bảo vệ chính họ.
Đó là một thỏa thuận tồi đối với Mỹ. Mặc dù một số người có thể hy vọng rằng sự phụ thuộc này sẽ lôi kéo các quốc gia châu Âu vào "sân khấu" châu Á, nhưng điều đó không đảm bảo rằng châu Âu sẽ theo chân Mỹ vào châu Á cũng như không xây dựng các quốc gia châu Âu thành những chủ thể có năng lực có thể giảm bớt gánh nặng quân sự của Mỹ.
Lập luận thứ hai là Mỹ gặt hái những lợi ích từ mạng lưới liên minh hiện có của mình mà họ sẽ mất đi nếu áp dụng một vai trò hạn chế hơn trong phòng thủ châu Âu. Tuy nhiên, về điểm này, ví dụ của ông Mazarr về hợp tác quân sự giữa Mỹ và các nước Bắc Âu là một ví dụ rõ ràng: Mỹ đã hợp tác với Phần Lan và Thụy Điển từ rất lâu trước khi hai nước gia nhập NATO.
Nhiều lĩnh vực lợi ích có mục đích, chẳng hạn như chia sẻ thông tin tình báo và an ninh mạng, được dàn xếp thông qua các mối quan hệ hoặc thỏa thuận song phương, không phải thông qua NATO. Sự hợp tác như vậy gần như chắc chắn sẽ tiếp tục trong trường hợp không có sự hiện diện lớn của quân đội Mỹ ở châu Âu.
Lập luận thứ ba là các quốc gia châu Âu sẽ rút lui khỏi các mối quan hệ kinh tế xuyên Đại Tây Dương mạnh mẽ nếu Mỹ đóng góp ít hơn thông qua NATO. Nhưng trong những thập kỷ trước khi cam kết của Mỹ đối với an ninh châu Âu bị nghi ngờ nghiêm trọng, thương mại và đầu tư xuyên Đại Tây Dương vẫn mạnh mẽ.
Ngày nay, các nền kinh tế châu Âu và Mỹ thậm chí còn hội nhập sâu sắc hơn. EU xuất khẩu nhiều hàng hóa sang Mỹ hơn bất kỳ quốc gia nào khác và EU là đối tác xuất khẩu hàng hóa lớn thứ ba của Washington.
Là những thế lực lớn nhất của các nền kinh tế công nghiệp hóa tiên tiến, châu Âu và Bắc Mỹ chia sẻ những vấn đề và mục tiêu chung, chẳng hạn như đạt được sự chuyển đổi phối hợp sang năng lượng xanh.
Lịch sử cũng không cho thấy rằng sự hiện diện của quân đội Mỹ ở châu Âu cho phép Washington ngăn cản các quốc gia châu Âu buôn bán với các nước thù địch. Trong Chiến tranh Lạnh, các quốc gia châu Âu, mặc dù được hưởng lợi từ sự bảo vệ của Mỹ, nhưng vẫn phản đối các biện pháp kiểm soát thương mại đối với Liên Xô. Tiền lệ này đặt ra nghi ngờ về quan điểm cho rằng Mỹ có thể tận dụng sự hiện diện quân sự của mình ở châu Âu để hạn chế hoặc giảm bớt quan hệ thương mại giữa EU và Trung Quốc.
Chắc chắn, các quốc gia châu Âu có thể trở nên ít tôn trọng hơn đối với Washington nếu Mỹ rút quân trong khi vẫn ở lại NATO. Mặt khác, họ vẫn sẽ có động cơ để tự bảo vệ mình khỏi hoạt động do thám, giám sát và cưỡng ép kinh tế của Trung Quốc, đồng thời định hình các quy tắc và chuẩn mực toàn cầu trong quan hệ đối tác với Mỹ. Nguy cơ tách rời thương mại xuyên Đại Tây Dương là nhỏ, đặc biệt là khi các quốc gia châu Âu có thể chuyển hướng khỏi chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc ngay cả khi Washington duy trì tất cả các lực lượng của mình ở châu Âu. Và lợi ích tiềm năng về một châu Âu có thể tự vệ nếu cần là rất đáng kể.
Tín hiệu hòa bình
Phối hợp bảo vệ châu Âu hiện là lựa chọn tốn kém đối với Mỹ. Hành động với tư cách là người bảo vệ châu Âu càng làm tăng thêm sự kiêu ngạo của Mỹ và cho phép Washington bỏ qua những lời khuyên thường có giá trị của những người bạn của mình.
Khi các chính phủ Tây Âu lên tiếng phản đối cuộc chiến ở Iraq năm 2003, họ đã bị phớt lờ dù họ đã đúng. Nếu châu Âu có quyền tự chủ chiến lược lớn hơn, Washington sẽ ít có khuynh hướng ảo tưởng rằng một mình Mỹ có thể định hình thế giới theo ý muốn.
Sự thống trị của Mỹ cũng khiến các quốc gia châu Âu trở thành "trẻ sơ sinh" bằng cách coi các nước này không có khả năng bảo vệ người dân và giảm quyền tự quyết của họ trong chính sách đối ngoại. Và nó ngày càng rủi ro, khi một bức tranh chiến lược đen tối tạo ra viễn cảnh Mỹ đột ngột rút lui trong những tình huống nguy cấp.
Sau đó, tốt hơn là trao quyền cho các đồng minh châu Âu bắt đầu lấp đầy những khoảng trống trong tương lai về năng lực của Mỹ.
Mục tiêu ban đầu của các nhà hoạch định chính sách Mỹ trong thập kỷ sau Thế chiến thứ hai là giúp người châu Âu đứng dậy và tự bảo vệ mình. Tuy nhiên, thay vì nhận ra rằng các quốc gia này hiện có khả năng làm như vậy, trớ trêu thay, một số quan chức ở Washington dường như lo sợ viễn cảnh này, nắm bắt lý do để khiến cho sự hiện diện của Mỹ ở châu Âu trở nên lâu dài và mở rộng các cam kết quốc phòng của Mỹ hơn nữa.
Đối với tất cả những lời chỉ trích mà ông Macron nhận được, nhà lãnh đạo Pháp đang đặt những câu hỏi đúng. Trong những thập kỷ tới, Mỹ và Châu Âu nên tìm kiếm mối quan hệ như thế nào? Nó có nên là một quan hệ đối tác thực sự thích nghi với hoàn cảnh thay đổi? Hay nó nên là một sự phụ thuộc không cân xứng để duy trì sự thống trị cố thủ của Mỹ, khiến các quốc gia châu Âu ít trở thành đồng minh hơn mà với tư cách là chư hầu nhiều hơn? Yêu cầu châu Âu can thiệp có vẻ mạo hiểm, nhưng thực tế lại là sự lựa chọn an toàn hơn.
Quá trình chuyển đổi này sẽ không dễ dàng. Xây dựng một nền quốc phòng châu Âu khả thi sẽ đòi hỏi phải vận động chính trị khéo léo, nuôi dưỡng cơ sở công nghiệp quốc phòng của châu Âu và một sự thay đổi toàn diện trong văn hóa chiến lược.
Nó sẽ mất thời gian nếu được thực hiện đúng. Nhưng kết quả sẽ minh chứng cho nỗ lực. Trái ngược với những gì Mazarr và các nhà phê bình khác tuyên bố, liên minh sẽ trở nên mạnh mẽ, an toàn và bền vững hơn, phù hợp với những gì những người tạo ra nó sau chiến tranh đã hình dung. Thay vì báo hiệu sự rút lui khỏi các vấn đề quốc tế, Mỹ sẽ chứng tỏ rằng họ không phải là một nước bá quyền lạc lõng, đang suy tàn và bám lấy ưu thế trước đây của mình, thay vào đó là một nhà lãnh đạo toàn cầu, tìm cách hợp tác với các đối tác có năng lực để xây dựng một thế giới an toàn và kiên cường.