Tuy số lượng di tích là vậy, nhưng để khai thác và phát huy giá trị kinh tế từ các di tích trên vẫn đang là câu hỏi được đặt ra cho nhà quản lý. Cũng bởi, số lượng thì nhiều nhưng liệu người dân có quan tâm đến và thế hệ trẻ có biết đến các di tích này không? Ngay tại TP.HCM, có những di tích được công nhận chỉ còn lại bãi hoang phế bên cạnh những di tích mang lại giá trị kinh tế vô cùng to lớn.
Bài 1: Đối lập di tích trong lòng thành phố
Ngay trong lòng TP.HCM, nơi những công trình hiện đại được mọc lên thay thế những quá khứ và hiện tại đan xen. Những câu chuyện đối lập về lịch sử và văn hóa đang tồn tại trong ký ức người dân.
Lò gốm cổ Hưng Lợi, một di tích khảo cổ Quốc gia được công nhận rồi trở thành hoang phế. Một chợ Bến Thành luôn sôi động như một biểu tượng bất diệt của Sài Gòn phồn hoa. Bức tranh đối lập đó đã phản ánh một góc thực trạng của việc công nhận trăm ngàn di sản dài dằng dặc theo ngày tháng trên cả nước.
![]() |
Di tích khảo cổ học lò gốm cổ Hưng Lợi. |
Thăm thẳm đường vào khu di tích hoang phế
Di tích lò gốm Hưng Lợi nằm ven kênh Ruột Ngựa (quận 8 cũ). Ngay từ ngoài đường Nguyễn Ngọc Cung, nhiều tấm bảng nhỏ chỉ đường đi theo hướng mũi tên luồn lách vào sâu bên trong. Con hẻm ngoằn ngoèo rộng chỉ khoảng 1 xe gắn máy lưu thông và gặp khó khăn khi xe gắn máy khác lưu thông theo chiều ngược lại.
Qua tầm 5 bảng dẫn đường, “khu di tích” lộ ra trước mắt với cổng kín, tường cao. Cánh cổng sắt rộng khoảng 3 mét được sơn màu đỏ gắn chắc chắn với 2 trụ bê tông 2 bên. Phía bên trên cổng là hàng chữ: “Di tích khảo cổ học lò gốm Hưng Lợi”. Giữa cổng là bảng đỏ với dòng chữ: “UBND quận 8. Phòng Văn hóa Thông tin quận 8. Nghiêm cấm xâm phạm di tích”. Xung quanh khu di tích là hàng rào bằng thép cao tầm 3m che chắn tầm nhìn vào bên trong.
Dạo một vòng khu di tích, chúng tôi quan sát được nhiều camera được lực lượng chức năng gắn bên ngoài để quan sát và bảo vệ tránh bị người dân xâm phạm vào bên trong. Khi hỏi về những người am hiểu khu đất này nhất, người phụ nữ này cho biết: “Ở đây chỉ có bà Bảy Mành là người tường tận về khu vực lò gốm Hưng Lợi”.
Lần theo sự chỉ dẫn nhiệt tình của nhiều hộ dân, chúng tôi có mặt tại nhà bà Bảy Mành. Bà tên thật là Nguyễn Thị Phương, đã ở tuổi ngoài thất thập nhưng trông vẫn còn rất khỏe mạnh, nước da vẫn còn trắng hồng. Khi hỏi chuyện về lịch sử lò gốm, dòng ký ức từ những thập niên trước lại tràn về.
Năm 1945, gia đình bà Bảy Mành khăn gói trên con thuyền ba lá, di tản từ vùng quê của tỉnh Long An đến cắm sào trên khu lò gốm cổ Hưng Lợi. Trước mắt họ là một cảnh tượng điêu tàn, không bóng người và chỉ thưa thớt vài ngôi nhà. Gia đình bà Bảy cư ngụ trên chính thửa đất này qua bao biến đổi của thời cuộc. Cả gia đình nhiều thế hệ của bà Bảy đã khai phá hơn 4 héc-ta đất trong hàng chục năm sinh sống ở đây.
![]() |
Bên trong di tích khảo cổ học lò gốm cổ Hưng Lợi. |
Sau 30/4/1975, gia đình bà Bảy hân hoan sống trong cảnh đất nước hòa bình. Các con, cháu được học hành đến nơi, đến chốn. Vùng đất vắng người xưa kia bắt đầu có dân đến sinh sống. Nhiều người đến lập nghiệp, không có đất, được gia đình bà Bảy cắt đất để cùng canh tác.
Năm 1997, một nhóm nhà khảo cổ học đến một phần thửa đất trước đây gia đình bà từng lập nghiệp (thửa đất 176, tờ bản đồ số 4) để xin thực hiện việc khảo cổ. Lúc này, trên thửa đất vẫn còn gò cao chừng 5 mét, có cây me mọc phía trên nên được người dân gọi là “Gò Me”. Gia đình bà Bảy đồng ý tạo mọi điều kiện để thực hiện việc khảo cổ khai quật di tích. Bà Bảy kể rằng, thậm chí có nhiều hộ dân còn góp công, góp sức để việc khai quật diễn ra một cách thuận lợi và nhanh chóng.
Năm 1998, kỷ niệm 300 năm Sài Gòn - TP.HCM, dấu tích lò gốm Hưng Lợi được nhắc đến về một thời vàng son nằm trong khung thời gian hình thành đô thị này, tiêu biểu cho di tích khảo cổ - làng nghề thủ công.
Ngay sau đó, lực lượng chức năng đã thu hồi đất và bồi thường cho gia đình bà Bảy Mành số tiền 5 triệu đồng nhưng gia đình bà không đồng ý. Tranh luận về tình và lý của “Di tích lò gốm cổ Hưng Lợi” vẫn chưa hề dứt, nhưng hiện nay phần di tích này được quây rào bằng những tấm thép với diện tích vùng lõi rộng chỉ hơn 850m².
Theo một số tài liệu của người Pháp, tại Chợ Lớn vào cuối thế kỷ 19 có khoảng 30 lò gốm tập trung ở Hòa Lục, Phú Định, Cây Mai... Tuy nhiên đến khoảng giữa thế kỷ 20, do quá trình đô thị hóa nên các lò gốm đã không còn sản xuất. Trong hai năm 1997–1998, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tại TP.HCM tiến hành khai quật khu lò gốm Hưng Lợi, trước kia thuộc làng Hòa Lục, vốn là một trong những khu vực của xóm Lò Gốm xưa.
![]() |
Tường bao quanh di tích khảo cổ học lò gốm cổ Hưng Lợi. |
Quá trình khai quật cho thấy khu vực này có 3 lò gốm kiểu lò ống (lò Tàu) nối tiếp và chồng lên nhau, niên đại từ giữa thế kỷ 18 đến khoảng năm 1940 với 3 giai đoạn sản xuất, các sản phẩm gốm có: lu gốm, siêu, ơ (nồi có tay cầm), hũ men nâu, men vàng, hộp, chậu bông, chén, đĩa men xanh trắng...
Trong đó lu gốm là sản phẩm chủ yếu của khu lò Hưng Lợi, phế phẩm lu nằm dày đặc trong nền lò và hai bên thành, cùng phế phẩm các loại sản phẩm khác tạo thành gò cao đến 5-6 m; trong các hố thám sát ở phạm vi 1.000 m2 quanh gò cũng phát hiện nhiều mảnh lu ở độ sâu 0,5–0,6 m.
Bến Nghé ngày ấy, Sài Gòn hôm nay
Chiều tà tháng 6, chúng tôi đứng trước cổng chính Chợ Bến Thành - nơi dòng người ngược xuôi chẳng ngừng nghỉ. Ánh đèn từ các sạp hàng hắt ra, sáng cả một góc phố. Ở đây, có đủ thứ: từ những tấm lụa áo dài óng ánh, đồ thủ công chạm khắc tỉ mỉ, đến mùi thơm nức của bát phở nóng hổi hay tiếng xèo xèo từ chảo bánh xèo.
Một nhóm khách Tây, tay cầm máy ảnh, tò mò ngó nghiêng sạp trái cây rực rỡ. Cô bán hàng lưu niệm, má hồng rạng rỡ, líu lo mời chào bằng thứ tiếng Anh còn ngọng nghịu: “Come, come! Very beautiful, Vietnam!”. Cảnh ấy, âm thanh ấy, như thể cả Sài Gòn thu nhỏ trong từng khoảnh khắc.
![]() |
Kiến trúc bên trong chợ Bến Thành. |
Chợ Bến Thành chẳng biết tự khi nào đã thành một phần không thể thiếu của thành phố. Hồi thế kỷ 17, nó chỉ là một góc nhỏ bên sông Bến Nghé, nơi thuyền bè tấp nập, người Việt, người Hoa, thương nhân ngoại quốc rộn ràng trao đổi. Đến năm 1912, người Pháp xây nên ngôi chợ khang trang, với tháp đồng hồ cao vút và bốn cổng chính mở ra những con đường lớn: Lê Lợi, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Huệ. Tòa nhà mang dáng dấp Tây phương, nhưng cái hồn Việt thì vẫn đậm đà qua tiếng rao lanh lảnh, tiếng cười giòn tan, hay hình ảnh những gánh hàng rong lấm lem bụi đường.
Giữa dòng chảy thời gian, cũng có những đổi thay khiến lòng người bâng khuâng. Có người bảo giá cả trong chợ giờ “hơi chát”, nhất là với khách du lịch. Một vài sạp hàng, thay vì giữ những món đồ truyền thống, lại bày bán hàng nhập khẩu giá rẻ, làm chợ phai đi chút nét xưa.
Dẫu có đổi thay, Chợ Bến Thành vẫn là một mảnh ký ức sống động của Sài Gòn. Tháp đồng hồ sừng sững đã đi vào thơ, vào tranh, vào những tấm bưu thiếp gửi đi muôn nơi. Với người dân thành phố, dù có đi xa, chỉ cần nhắc đến chợ là cả một trời ký ức ùa về: những ngày lẫm chẫm theo mẹ, tiếng rao thân thuộc, hay mùi thơm của ly cà phê sữa đá quầy nước ven đường.
![]() |
Những hàng hóa đặc trưng của người dân Việt được bày bán tại chợ Bến Thành. |
Thành phố Sài Gòn gần 330 năm tuổi với bao công trình như Dinh Độc Lập, Nhà thờ Đức Bà, Bưu điện Thành phố, nhưng Chợ Bến Thành vẫn có một chỗ đứng riêng. Nếu được chăm chút, bảo tồn đúng cách, chợ không chỉ là ký ức của quá khứ mà còn là cầu nối để văn hóa Sài Gòn vươn xa.
Chợ Bến Thành hiện tại đã khoác lên mình diện mạo mới, vừa hiện đại, vừa giữ được cái duyên, cái hồn của “Hòn ngọc Viễn Đông” năm nào. Một tuyến metro đã được vận hành và đi ngang chợ, giúp người dân có thể kết nối đến “hồn chợ, hồn người” mỗi khi nhớ về Sài Gòn xưa. Theo Sở Du lịch TP.HCM, mỗi năm chợ đón hàng triệu lượt khách, phần lớn là người nước ngoài.
Theo thống kê, tính đến trước ngày 1/7/2025, TP.HCM có 200 di tích, trong đó có 2 di tích Quốc gia đặc biệt, 58 di tích Quốc gia và 140 cấp thành phố. Sau khi sáp nhập, hiện tại, TP.HCM mới có 314 di tích: 4 di tích Quốc gia đặc biệt, 99 Quốc gia và 221 cấp thành phố.
Trong 314 di tích của TP.HCM mới, ngoài 200 di tích ở TP.HCM cũ, thì tỉnh Bình Dương cũ có 66 di tích, gồm: 13 di tích Quốc gia và 53 di tích cấp tỉnh, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cũ có 48 di tích, gồm: 2 di tích Quốc gia đặc biệt, 28 di tích Quốc gia và 18 di tích cấp tỉnh.
Tại Việt Nam, đứng đầu là Hà Nội với tổng số 5.175 di tích, Thái Bình 2.539 di tích, Bắc Giang 2.237 di tích, Ninh Bình 1.879 di tích, Bắc Ninh 1.859 di tích, Đồng Nai 1.800 di tích…
Mời các bạn đón đọc Bài 2: Những vết thương còn sẹo