Để đưa ra con số đáng kinh ngạc trên, các nhà khoa học đã tiến hành phân tích 465 công trình nghiên cứu đếm số kiến theo khu vực trên thực địa. Hàng trăm nghiên cứu sử dụng 2 kỹ thuật tiêu chuẩn là: đặt bẫy thu hút kiến đi qua trong một khoảng thời gian nhất định hoặc phân tích số lượng kiến trên một đám lá có sẵn trên mặt đất.
Các nghiên cứu được tiến hành ở tất cả các châu lục, song một số khu vực lớn có ít hoặc không có dữ liệu, trong đó có châu Á và miền Trung châu Phi. Do đó, nghiên cứu mới cho rằng số lượng kiến thực sự trên toàn cầu có thể còn lớn hơn nhiều so với ước tính 20.000.000 tỷ con. Trước đây, một số nghiên cứu cũng ước tính số lượng kiến sinh sống trên Trái Đất, nhưng đưa ra con số thấp hơn.
Có hơn 15.700 loài và phân loài kiến đã được tìm thấy trên khắp hành tinh và đã được đặt tên. Nhiều khả năng số lượng tương đương loài và phân loài kiến chưa được xác định. Tuy nhiên, gần 65% số kiến được phát hiện chỉ ở 2 hệ sinh thái gồm rừng nhiệt đới và xa-van.
Dựa vào số lượng kiến ước tính trên, các nhà khoa học cho rằng tổng sinh khối của chúng là 12 megaton cacbon khô, nhiều hơn của các loài chim hoang dã và động vật có vú cộng lại, và bằng 20% tổng sinh khối của con người. Sinh khối là số lượng sinh vật sống trên một đơn vị diện tích, thể tích của một vùng.
Loài kiến có vai trò quan trọng trong hệ sinh thái, phân tán hạt giống của nhiều loài thực vật, ăn các loài côn trùng khác và cũng là nguồn thức ăn của nhiều loài động vật. Việc xác định số lượng kiến có vai trò quan trọng để đánh giá hậu quả của những thay đổi đối với môi trường sống của kiến, bao gồm cả những thay đổi do biến đổi khí hậu gây ra.
Trong tương lai, các nhà khoa học có kế hoạch nghiên cứu các yếu tố môi trường tác động đến mật độ dân số của loài sinh vật nhỏ bé này.