Theo Thượng tọa Thích Đức Thiện - Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hội đồng trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ông đã nhận được nhiều tin nhắn của lãnh đạo Giáo hội Phật giáo, tăng ni… bày tỏ bức xúc về sự việc tại chùa Ba Vàng. Lãnh đạo Giáo hội khẳng định, sẽ xử lý nghiêm việc này. Sai đến đâu xử đến đó.
Thượng toạ Thích Đức Thiện khẳng định: Phật giáo dậy tu hành, thiện căn tốt, duyên tốt thì sẽ chuyển hóa. Không hề có chuyện thỉnh vong hay giải oan nghiệt gì cả. Phật hoàn toàn không dạy những điều như chùa Ba Vàng đang thực hiện.
Thượng toạ Thích Đức Thiện trả lời báo An ninh Thủ đô cũng nói rõ: Tôi không tham dự nghi lễ nào trực tiếp ở chùa Ba Vàng, nhưng tôi có xem clip trên báo chí. Qua clip, tôi thấy có nhiều vấn đề lắm. Việc người ta đem chuyện nữ sinh viên bị giết ở Điện Biên đầu năm vừa rồi để giải nghĩa cho cái gọi là oan gia trái chủ là hoàn toàn không đúng tôn chỉ giáo lý, chủ trương của Giáo hội và trái đạo đức xã hội. Cái chết đau xót của một con người lại được giải thích bằng mơ hồ hành động kiếp trước để kết luận là oan gia rồi ngụy biện cho hành động tàn bạo trong xã hội là hoàn toàn không thể chấp nhận được.
Nhiều người đặt câu hỏi: Vậy Đại đức Thích Trúc Thái Minh là ai? Con đường tu tập của vị trụ trì chùa Ba Vàng như thế nào?
Ngày Nay xin đăng nguyên văn toàn bộ bài viết đã được đăng trên website của Chùa Ba Vàng có tiêu đề: Chuyện một giảng viên rũ bỏ sự nghiệp đi tu.
Đại Đức Thích Trúc Thái Minh tên thật là Vũ Minh Hiếu sinh ngày 03/03/1967 tại làng Sen, thôn Ngọc Quan, xã Lâm Thao, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh. Thầy sinh ra trong một gia đình phật tử nên tuổi thơ đã gắn liền với tiếng mõ, câu kinh, bài kệ của bà nội. Hơn nữa, nhờ sự giáo dục trong gia đình nề nếp nên ngay từ khi còn nhỏ Thầy đã nổi tiếng là con ngoan và trò giỏi. Người luôn đứng trong hàng ngũ lớp chọn và đội tuyển học sinh giỏi cấp tỉnh, cấp quốc gia.
Sau khi học xong phổ thông trung học, Người đã nộp hồ sơ dự thi vào Đại học Kinh tế quốc dân (Hà Nội) - một trong những truờng đại học danh giá thời bấy giờ. Với tư chất thông minh, tính tình hiền lành, Người luôn được thầy thương bạn mến. Tốt nghiệp đại học, Người được giữ lại trường làm giảng viên.
Sau cái chết bất ngờ của nguời chị họ khiến Thầy không khỏi bàng hoàng trước sự vô thường của kiếp nhân sinh. Những câu hỏi: "Chết là thế nào?”, "Mình sống để làm gì?”, "Chết là còn hay hết?” rồi "Mình là gì?”... cứ ám ảnh tâm trí Thầy. Thầy cố gắng tìm câu trả lời trong triết học rồi kiến thức khoa học nhưng tất cả đều không lý giải được. Cuối cùng Thầy đành nhờ đến triết lý nhà Phật trong cuốn sách "Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng giải” tại chùa Quán Sứ.
Từ đó, Thầy bắt đầu tìm hiểu nghiêm túc về Phật pháp và thỉnh tượng Phật về thờ trong căn phòng nhỏ tại khu tập thể của trường. Sau đó, Thầy cùng vài đồng nghiệp có cùng chí hướng lập ra Đạo tràng Quán Sứ, cùng các phật tử trong đạo tràng tụng kinh, lễ bái, chia sẻ giáo lý của Đức Phật. Thầy đã tự tay mình tạc tượng của Bồ Tát Địa Tạng bằng những đồng lương ít ỏi.
Nhớ lại chuyện này, thầy Lê Anh Tuấn, nguyên Trưởng phòng Chính trị và Công tác sinh viên trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho biết: "Tôi cũng không nhớ rõ Thầy Vũ Minh Hiếu làm giảng viên tại trường từ năm nào đến năm nào. Tôi chỉ biết Thầy đã từng làm giáo viên thỉnh giảng tại trường 5 năm. Hồi còn ở ký túc xá, Thầy Hiếu ở phòng số 31, đối diện với phòng tôi. Ấn tượng của tôi về Thầy là người có bức tai to như tai Phật. Bạn bè vẫn thường gọi Thầy là "Người của Phật”.
Thầy Tuấn chia sẻ thêm về người đồng nghiệp cũ. Thầy Tuấn cho rằng, Thầy Hiếu liên tục tham gia các hoạt động đoàn thể rất hăng hái nên được bạn bè trong trường quý mến. Bạn bè ai cũng cho rằng Thầy là người có một cái tâm với nghề. Thầy Hiếu là người theo Phật nên đã đem tượng phật về thờ tại phòng. Tuy nhiên, đó chỉ là tín ngưỡng riêng của mỗi người, việc này không có ảnh hưởng gì đến trường và cũng không có ai phê phán gì. Việc Thầy xin nghỉ việc và sau đó đi tu cũng khiến rất nhiều bạn bè là giảng viên trong trường không khỏi ngỡ ngàng.
Sau 5 năm làm giảng viên Đại học, Thầy chuyển sang công tác tại Viện Nghiên cứu chế tạo máy của Bộ Công Thương. Tại đây, ngoài công việc chuyên môn, Thầy còn đuợc bổ nhiệm làm Bí thư Đoàn, thuờng xuyên tổ chức cho cán bộ nhân viên trong cơ quan đi chùa, lễ Phật. Một lần Thầy tình cờ đọc được 4 câu kệ: "Muốn thấy thập phương tất cả Phật/ Muốn ban vô tận công đức tạng/ Muốn diệt chúng sinh tất cả khổ/ Phải nên mau phát Bồ Đề tâm” và khi cầm trên tay cuốn sách "Khuyến phát Bồ Đề Tâm” của Thật Hiền Đại sư giữa một chồng sách tại thư viện chùa Quán Sứ, Thầy đã ước mơ đuợc phát bồ đề tâm.
Với ý chí và lòng quyết tâm ngày 19/6/1998, Thầy cùng Đạo tràng bắt xe vào Đà Lạt xin phát bồ đề tâm trước Hoà Thượng Thích Thanh Từ tại Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt. Sau chuyến đi Thầy càng có niềm tin và quyết tâm dấn thân cầu đạo giải thoát. Nhưng cũng từ đây chướng duyên theo nhau mà đến. Khi Thầy quyết tâm đi tu, bố mẹ đã phản đối dữ dội. Hơn nữa, cô bạn gái cũng là vợ sắp cưới của Thầy cũng phản đối. Tuy nhiên trước ý nguyện của người yêu mình, cô đã ủng hộ. Được biết, cô gái này đã tình nguyện chia tay để Thầy có thể thoát tục. Người yêu cũ cũng theo đoàn về thuyết phục để Thầy được thỏa ước nguyện.
Cuối cùng gia đình đã đồng ý cho con xuất gia. Buổi tiễn đưa diễn ra trong nghẹn ngào nước mắt: "Con biết rằng, tình mẹ thương con vô bờ, không muốn cách xa con khờ, nhưng vì chí nguyện riêng của con nên mẹ ngăn lệ nuốt sầu tiễn con đi.” .
Từ sau buổi chia ly, Thầy xin đến thực hành đời sống tập sự xuất gia tại chùa Diên Phúc (Hà Tây). Sau hai tháng thực tập, ngày 19/6/1999, Thầy tiếp tục bắt xe vào Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt để xin xuất gia, chính thức bước vào đời sống tu sĩ. Pháp danh của Thầy là Thích Trúc Thái Minh.Trong thời gian tu học tại Thiền viện, Thầy luôn nghiêm túc tu học nết sống thiền môn. Thầy không ngại khổ và không bao giờ trễ nải các thời khóa công phu của đại chúng. Người phát nguyện đun nước, bê nước cho đại chúng uống trong suốt những năm tháng ấy.
Năm 2001, khi hội tụ đầy đủ duyên lành, Thầy xin Hòa Thượng quay ra Bắc, góp sức xây dựng Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử. Ban lãnh đạo của Thiền viện nhìn thấy được khả năng và đức hạnh của Thầy nên đã giao phó cho Người làm tri khách. Với tâm từ bi, vốn hiểu biết sâu rộng, Thầy được Phật tử gần xa rất yêu mến, kính trọng. Suốt từ năm về chùa tới nay, Thầy không ngừng nghỉ hóa độ chúng sinh, hoằng dương phật pháp. Thầy luôn tổ chức các hoạt động từ thiện "lá lành đùm lá rách” với tông chỉ: "phát bồ đề tâm, tu các công đức, hồi hướng phát nguyện vãng sinh tịnh độ”, mong cho ánh sáng giác ngộ của Thế Tôn được truyền rộng rãi đến tất cả muôn loài.
Đến năm 2007, chính quyền và nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh xin thỉnh Thầy về làm Trụ trì Chùa Ba Vàng – Bảo Quang Tự. Với tấm lòng từ bi, luôn vì chúng sinh nên Thầy được nhiều Phật tử ở nhiều vùng miền trong cả nước và nước ngoài yêu kính, chọn là người để họ có thể chia sẻ, thổ lộ những khó khăn trong cuộc sống hay trên con đường tu tập. Đó là tình cảm của một người cha yêu thương các con bằng tấm lòng bao dung, dù cho con có gây ra bao nhiêu lỗi lầm đi chăng nữa thì cha vẫn dang rộng vòng tay che chở. Chặng đường Thầy đã đi qua đầy những chông gai, thử thách. Chính là những năm tháng ấy đã tôi rèn ra con người của ngày hôm nay: có ý chí, có bản lĩnh và lòng từ bi rộng lớn với tất cả chúng sinh.