Những tờ báo mà các văn thi sĩ viết cộng tác hoặc tổ chức thực hiện từ nội dung đến hình thức thường gắn liền với nghề cầm bút của họ và đồng nghiệp, để chủ động đăng tải những sáng tác mới nhất, nhanh nhất đến với độc giả. Những tờ như Phong Hóa, Ngày Nay của Tự Lực Văn Đoàn hay Tiểu Thuyết Thứ Bảy của cụ Vũ Đình Long với sự cộng tác của các cụ văn sĩ Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan… được xuất bản những năm 1930 đã thể hiện rõ nghiệp văn và nghề báo gắn bó khắn khít với nhau không thể tách rời.
Từ năm 1969 - 1975 tại miền Nam, tuần báo Tuổi Ngọc do nhà văn Duyên Anh làm chủ nhiệm kiêm chủ bút với sự cộng tác của nhiều văn thi sĩ đã tạo nên sự say mê tìm đọc của độc giả thanh thiếu niên một thời. Những năm 1990, những tờ tuần báo, tập san do các văn thi sĩ thực hiện như Mực Tím, Áo Trắng… cũng từng được đón đọc nồng nhiệt với lượng phát hành mỗi kỳ lên đến cả trăm ngàn bản in.
Với tờ Áo Trắng được sáng lập và chủ biên bởi nhà văn Đoàn Thạch Biền, từng có một thời phủ sóng khắp các trường học và tạo ra không khí sinh hoạt văn nghệ trong giới trẻ hầu khắp các tỉnh thành với hệ thống Gia đình Áo Trắng. Tập san này ra đời trong bối cảnh khá đặc biệt, khi đất nước vừa xóa bỏ bao cấp, các ấn phẩm khiêu dâm như Cô giáo Thảo được in lậu, chép tay tràn vào cặp sách của không ít học sinh.
Trước tình hình đó, ông Lê Hoàng – Giám đốc NXB Trẻ, bàn với nhà văn Đoàn Thạch Biền ra một ấn phẩm định kỳ để hướng giới trẻ đến với những giá trị của sự trong sáng, phù hợp lứa tuổi mới lớn. Và tập san Áo Trắng đã ra đời không chỉ được bạn đọc đang lứa tuổi đi học đón nhận mà còn được rất nhiều phụ huynh, người lớn tuổi cổ vũ viết bài công tác và đón đọc.
Những năm 1990 có thể nói là thời hoàng kim của báo in cũng như tất cả các ấn phẩm khác, miễn có chữ là có người đọc. Sách, báo hiện diện khắp các sạp, bán dạo ở vỉa hè các đô thị, hiện diện trong các bưu điện từ thành thị đến nông thôn, các bến xe bến tàu, bệnh viện với đội quân bán sách báo dạo luôn thường trực. Người ta đọc sách, báo như thể bị đói khát lâu ngày nay được thỏa cơn thèm. Thậm chí, giới đầu nậu làm sách còn thuê người xem phim dài tập của Đài Loan, Hồng Kông… rồi viết lại thành những cuốn “tiểu thuyết ba xu”; hoặc các vụ án đang tạo dư luận được gom lại in thành sách, để đội quân bán dạo cho khách đợi tàu, xe ở các bến hay người đi nuôi bệnh ở các bệnh viện “giết thời gian”.
![]() |
Nhà thơ Lê Minh Quốc. Hí họa: Nhâm Văn Hán |
Có một thời như thế, đã được nhà thơ Lê Minh Quốc khái quát lại thành những câu thơ: “Thời tôi sống nhà thơ thì viết báo/ Để kiếm cơm hơn một chút danh hờ/ Còn nhà báo thì lại giàu mơ mộng/ Viết phóng sự bằng tưởng tượng của thơ”. Lê Minh Quốc cho biết anh làm bài thơ này có tên “Kẻ tự sát” đăng lần đầu năm 1988 trên tạp chí Đất Quảng. Bài thơ còn có những câu khái quát nghề báo nghiệp văn một thời: “Ngòi bút nhà thơ đặc mực nhà báo/ Nên bài thơ đầy... Nghị quyết! Hoan hô!/ Còn nhà báo thì lại quên nghề báo/ Nên bài báo đời đã hóa hóa bài thơ/ Nếu nghịch lý này trở thành hợp lý/ Thì chính chúng ta đang tự sát từng giờ...”.
“Còn nhà báo thì lại giàu mơ mộng” đúng chất nhà thơ đi viết báo khi xuất hiện rất nhiều bài phóng sự đẫm chất… sáng tác, là sản phẩm của trí tưởng tượng nhiều hơn “người thật, việc thật”. Đó là những bài phóng sự viết về bia ôm, mại dâm, ở đó người viết nhập vai khách làng chơi nhưng đầy lòng trắc ẩn, thương cảm những má hồng bạc mệnh phải làm nghề bán phấn buôn hương. Kết của những phóng sự này là mấy câu khuyên gái làng chơi hoàn lương hay mấy câu cảm thán cho những phận đời dưới đáy xã hội hệt những bài văn mẫu. Đúng là viết báo giàu mơ mộng kiểu của các… nhà thơ.
Riêng nhà thơ Lê Minh Quốc, có thể nói anh là một điển hình của người sống bằng “nghề báo, nghiệp văn” trọn đời. Sau những năm đi bộ đội ở chiến trường K suýt chết, Quốc bị Pôn Pốt bắt, đêm trước khi bị đem đi hành quyết, Quốc được đồng đội cướp ngục giải thoát; Quốc về học đại học khoa văn rồi đi viết báo, làm báo đến tận hôm nay.
Nhà văn Sơn Nam là người viết rất khỏe, các báo đặt bài là ông nộp bài đúng hạn. Lê Minh Quốc cho biết anh đã học Sơn Nam ở thái độ viết báo chuyên nghiệp này: “Báo đặt bài cần bao nhiêu chữ thì mình viết đúng vậy, còn khi đăng thì bài có bị cắt bớt hay bài không được đăng cũng là điều hết sức bình thường. Những đoạn, những chi tiết khi đăng báo bị cắt hay những bài bị gác, có thể được sử dụng khi in thành sách”. Khác với nhiều văn thi sĩ luôn coi chữ của mình là vàng là ngọc, bị cắt một câu hay sửa một vài chữ đã tìm người biên tập báo “chửi ầm lên” như mấy bà nhà quê bị “mất trộm gà”.
Nhà thơ Lê Minh Quốc đã làm báo, viết báo đúng như thế và mỗi năm anh đều có sách mới thuộc nhiều thể loại: sáng tác, biên khảo, sưu tầm, nghiên cứu… trình làng. Có thể so sánh mà không chút e ngại, sau lực điền của làng văn làng báo Tô Hoài thì Lê Minh Quốc là một con ong chăm chỉ mỗi ngày “tạo mật” trên trang bản thảo của mình như thế. Dù sách, báo hiện nay đang rất kém người đọc do nhiều điều kiện khách quan tác động, song đã “mang lấy nghiệp vào thân” thì người viết không thể nào ngưng viết. Vậy viết thơ, viết văn, viết báo để làm gì? Thì đây, xin mượn hai câu thơ của Lê Minh Quốc: “Thời tôi sống nhà thơ thì viết báo/ Để kiếm cơm hơn một chút danh hờ”, chí ít như một ý để trả lời dù biết không thể nào bao quát hết vậy.