Đa dạng sản phẩm, phương thức tiếp cận
Dịch COVID-19 tác động tới mọi ngành nghề, lĩnh vực trong xã hội, trong đó có các hoạt động dịch vụ du lịch văn hóa. Để kịp thời thích nghi, nhiều bảo tàng, di tích trên địa bàn Thủ đô đã nhanh chóng khắc phục khó khăn, linh hoạt thay đổi phương thức tiếp cận công chúng cũng như có những sản phẩm văn hóa phù hợp để thích ứng với tình hình mới, đáp ứng nhu cầu, thị hiếu khách tham quan, du lịch.
Trung tâm Hoạt động văn hóa, khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám giới thiệu ứng dụng công nghệ 3D Mapping để lấy ý kiến góp ý của doanh nghiệp du lịch, chuyên gia văn hóa. |
Do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, các bảo tàng, di tích đã phải đóng cửa trong một thời gian dài, gặp nhiều khó khăn, không có khách tham quan, không có nguồn thu từ vé và dịch vụ. Mặt khác, yêu cầu bảo quản hiện vật, bảo tồn di tích, duy tu, vận hành luôn đặt ra và đòi hỏi nguồn kinh phí, nhân lực lớn.
Trong bối cảnh khó khăn, không có nguồn thu đó, hầu hết các đơn vị bảo tàng, di tích trên địa bàn Hà Nội đã tìm cách xoay xở, tìm phương án để học hỏi lẫn nhau, làm ra các sản phẩm mới nhằm truyền thông, quảng bá thương hiệu. Trong đó, có thể kể tới như: Ban Quản lý Di tích Nhà tù Hỏa Lò, Hoàng thành Thăng Long đã cho ra mắt các tour du lịch về đêm; Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam ra mắt sản phẩm tour tham quan trực tuyến 3D. Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam cũng giới thiệu tour tham quan 360 độ; Trung tâm Hoạt động Văn hóa khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám giới thiệu ứng dụng công nghệ 3D Mapping trình chiếu bằng công nghệ ánh sáng cho sản phẩm tour du lịch ban đêm.
Theo bà Thu Trà, Phó Trưởng phòng Trưng bày, Truyền thông công chúng, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, trong bối cảnh dịch bệnh, Bảo tàng xác định đối tượng khách tiềm năng là các nhóm nhỏ, các gia đình nên tập trung xây dựng các sản phẩm dành cho nhóm đối tượng này, như: Làm nông dân bắt cá dưới suối nhân tạo, tổ chức các hoạt động tìm hiểu văn hóa truyền thống... hay chủ động đưa hoạt động đến trường học thay vì đợi các trường đưa học sinh tới. Do vận dụng sáng tạo, nên trong dịp cuối tuần qua, Bảo tàng Dân tộc học đón được 500 khách tới tham quan, trải nghiệm, dù không nhiều, nhưng là con số ý nghĩa trong thời gian này.
Còn theo ông Lê Xuân Kiêu, Giám đốc Trung tâm Hoạt động văn hóa, khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám, cùng với việc phục dựng Phương Đình tại gò Kim Châu, Trung tâm lên ý tưởng đề xuất triển khai phố đi bộ tại phố Văn Miếu và phố Quốc Tử Giám vào dịp cuối tuần, đưa khu vực này thành không gian văn hóa, có hệ sinh thái gồm rất nhiều hoạt động văn hóa liên quan đến Văn Miếu - Quốc Tử Giám.
“Trung tâm đang xúc tiến xây dựng tour du lịch đêm nhằm khai thác vẻ đẹp Văn Miếu - Quốc Tử Giám về đêm, áp dụng công nghệ để kể câu chuyện về đạo học Việt Nam. Kết hợp với sản phẩm đêm của di tích Nhà tù Hỏa Lò và Hoàng thành Thăng Long tạo ra sự độc đáo cho sản phẩm du lịch Hà Nội” ông Lê Xuân Kiêu cho biết.
Sản phẩm văn hoá liên kết du lịch, giáo dục
Trong bối cảnh thực hiện giãn cách, để quảng bá và thu hút khách, ứng dụng công nghệ đang là giải pháp được nhiều đơn vị bảo tàng, di tích triển khai, coi đây là xu thế tất yếu chuyển đổi số trong thời gian tới.
Đây là bài toán để các điểm đến cân nhắc, lựa chọn do công nghệ luôn thay đổi theo thời gian, cần được cập nhật thường xuyên, nếu không, sẽ dễ bị tụt hậu.
Bà Nguyễn Thu Hoan, Phó Giám đốc Bảo tàng Lịch sử quốc gia chia sẻ, dù là một trong những đơn vị được đánh giá cao về thực hiện hiệu quả công việc này nhưng cán bộ, nhân viên Bảo tàng vẫn xác định điều cốt lõi và quan trọng nhất vẫn là yếu tố con người và công tác chuẩn bị nội dung để vận hành bảo đảm sự phong phú, hấp dẫn, thu hút được khách.
Còn theo Phó Chủ tịch Hội lữ hành Hà Nội Lê Thanh Thảo, công nghệ là giải pháp để đa dạng hóa sản phẩm, tăng sức hấp dẫn cho điểm đến, nhưng dòng sản phẩm chủ lực của các điểm đến di sản vẫn phải là những tour tham quan thực tế với những cảm nhận, trải nghiệm trực tiếp.
Đồng quan điểm, ông Nguyễn Hồng Nguyên, đại diện Công ty Hanoitourist cho biết: Ứng dụng công nghệ mang lại trải nghiệm mới cho du khách nhưng mang tính quảng bá nhiều hơn. Còn trải nghiệm thực tế vẫn mang lại những giá trị riêng có. Do đó, tôi cho rằng xây dựng không gian Văn Miếu – Quốc Tử Giám tại khu vực bao quanh để trở thành điểm du lịch trọng tâm của Hà Nội là cần thiết. Theo thống kê, năm 2019 là thời điểm đón nhiều khách nhất đến Hà Nội là 7 triệu thì đã có khoảng 2 triệu khách tới Văn Miếu. Điều này cho thấy đây là điểm du lịch trọng tâm cần được sự quan tâm của các cấp chính quyền Hà Nội.
Phó Chủ tịch Hội Di sản văn hóa Việt Nam Lê Thị Minh Lý cho rằng, sản phẩm văn hóa cần được xác định đối tượng phục vụ rộng hơn, đó là công chúng, trong đó có khách tham quan, du lịch. Các đơn vị cần xây dựng sản phẩm dựa trên nhu cầu, thị hiếu khách hàng, thay vì có gì dùng đó. Bên cạnh đó, công nghệ thông tin, dù nhiều lợi thế, vẫn chỉ nên được coi là phương tiện. Do vậy, cần chú trọng đào tạo, bồi dưỡng lực lượng làm trong lĩnh vực này để từ đó có những sản phẩm ưng ý, không chỉ giúp kích cầu du lịch, mà còn bảo đảm mục tiêu quảng bá, tôn vinh di sản.
Ông Lê Xuân Kiêu đã nhận định: “Dịch COVID-19 khả năng không phải chỉ năm 2021 mà còn đến năm 2022 và hệ lụy còn kéo dài những năm sau đó, việc khách tham quan quay trở lại như lúc trước dịch sẽ còn mất nhiều thời gian. Nhu cầu của khách tham quan đã có những sự thay đổi rất rõ rệt, và khách đòi hỏi cao hơn, không chỉ đến di tích tham quan để chiêm ngưỡng những giá trị vật thể mà du khách muốn tìm hiểu những giá trị phi vật thể, do vậy phải giúp du khách tiếp cận được những giá trị của di tích thông qua các sản phẩm, hoạt động cụ thể. Bên cạnh đó, công nghệ cũng đòi hỏi các bảo tàng, di tích phải thay đổi trong quản lý, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản. Đây là những nhân tố đòi hỏi các bảo tàng, di tích phải nghiên cứu để xây dựng những sản phẩm phù hợp với điều kiện mới”.
Khuyến nghị các bảo tàng, di tích trong xây dựng các sản phẩm văn hóa phục vụ du lịch, bà Lê Thị Minh Lý, Phó Chủ tịch Hội Di sản Văn hóa Việt Nam phát biểu: “Các bảo tàng, di tích cần đa dạng các sản phẩm văn hóa, tạo ra sản phẩm có bản sắc của mình, đừng na ná giống nhau. Các sản phẩm phải dựa trên kho tàng di sản của chúng ta. Nhìn từ phương pháp cũng phải trên di sản, dựa trên hiện vật của mình. Công nghệ, hay những giải pháp gì chăng nữa đừng quên rằng: sứ mệnh của bảo tàng, di tích là trực quan sinh động, là cảm xúc. Đối tượng khách của các bảo tàng, di tích là công chúng, là cộng đồng, là khách du lịch và trong các đối tượng khách thì trẻ em là ưu tiên. Bởi vì trẻ em là tương lai của chúng ta. Bởi thế bảo tàng, di tích nào cũng phải làm giáo dục, đó là một trong những chức năng, nhiệm vụ chính của các bảo tàng, di tích”.
Từ góc độ quản lý nhà nước trong lĩnh vực văn hóa, ông ông Phạm Định Phong, Phó Cục trưởng Cục Di sản Văn hóa đã có những chia sẻ giúp các bảo tàng, di tích và ngành văn hóa chủ động hơn trong đối phó với các nguy cơ: “Sắp tới trong việc sửa đổi luật di sản văn hóa sẽ có 2 vấn đề dự kiến đặt ra: Đó là lập quỹ bảo tồn văn hóa. Khi mà chúng ta đang có nguồn thu tốt thì tại sao không để dành. Chúng ta sẽ nộp vào quỹ đó. Và từ quỹ đó để chi cho các hoạt động chuyên môn. Các đơn vị lập các dự án của tổ chức cá nhân, hay các dự án về bảo tồn, chúng ta sẽ có các nguồn từ điều hành quỹ cấp cho chúng ta vừa dễ thực hiện vừa công khai minh bạch. Thứ 2 là lập quỹ dự phòng ngay tại đơn vị có nguồn thu. Dịch COVID-19 có thể còn kéo dài, vậy chúng ta phải nghĩ đến tỷ lệ trích nộp lại quĩ dự phòng ở các đơn vị cao hơn. Ví dụ định kỳ 5 năm hay 10 năm mà chúng ta không phải sử dụng trong lúc khó khăn, nguồn kinh phí đó sẽ tái đầu tư cho các công việc chuyên môn, cho các hạng mục tu bổ, tu sửa, mua sắm trang thiết bị”
Dịch COVID-19 tác động mạnh đến việc đón khách của các bảo tàng, di tích, nhưng nếu các đơn vị "biến nguy thành cơ" thì đó cũng là cơ hội để bảo tàng, di tích thay đổi hình ảnh, tạo tiền đề phát triển bền vững giai đoạn hậu COVID-19, do đó, ông Phạm Định Phong cho rằng, các bảo tàng, di tích cần thay đối tư duy trong hoạt động, nghiên cứu nhu cầu tham quan của khách theo từng giai đoạn, xác định các sản phẩm phù hợp để thu hút khách. Khi áp dụng công nghệ 4.0, các bảo tàng, di tích cần nghiên cứu các đơn vị đi trước đã có thành công bước đầu để học tập, áp dụng; tránh trường hợp vừa áp dụng xong, công nghệ lại lạc hậu.