Trường hợp này tiếp tục nối dài thêm bi kịch “treo tay” của nhiều cầu thủ, mà nổi đình nổi đám nhất là câu chuyện của ngôi sao Nguyễn Hữu Hà, gắn với quy chế chuyển nhượng “chết yểu” mà Liên đoàn Bóng chuyền Việt Nam ban hành cách đây 9 năm.
Hai lần bị “treo tay” của ngôi sao Hữu Hà
Năm 2009, chủ công tài năng sinh năm 1981 Nguyễn Hữu Hà từng phải ngồi ngoài cả mùa giải, thậm chí còn mất suất ở ĐTQG vì muốn chuyển đến đầu quân cho Đức Long Gia Lai, trong khi Tràng An Ninh Bình kiên quyết không giải quyết. Tình thế lúc ấy căng tới mức, Hữu Hà tự ý ra đi mà không cần lý do còn đội bóng Ninh Bình đưa ra những hình thức mạnh tay với anh, từ kỷ luật công chức tới cấm thi đấu toàn quốc. Đến đầu năm 2010, CLB cũ mới chịu đàm phán với đội bóng phố Núi để “giải phóng” Hà với phí đền bù 1,35 tỷ đồng.
Năm 2014, Hữu Hà tiếp tục vướng vào một sự vụ mới, lần này với chính Đức Long Gia Lai. Muốn rời đội bóng Tây Nguyên theo diện tự do nhưng Hữu Hà không đạt được thỏa thuận về mức đền bù. Anh bị trói chặt bởi một điều khoản độc nhất vô nhị của hợp đồng lao động có chữ ký của cả hai bên: Sau khi đơn phương thanh lý hợp đồng, VĐV tự nguyện cam kết giải nghệ, không tham gia thi đấu cho đội bóng chuyền trong và ngoài nước, dưới bất kỳ hình thức nào. Và Hà vừa trải qua một mùa giải nữa làm HLV bất đắc dĩ của Biên Phòng, thay vì có thể tung hoành trên sàn đấu.
Lần trước, Hữu Hà đã qua mặt Tràng An Ninh Bình để “đi đêm” với Đức Long Gia Lai. Lần sau, anh hoàn thành thương thảo với Biên Phòng trước khi xin đi khỏi CLB của bầu Pháp. Hà đã nêu ra một “tấm gương” rất tiêu cực, dẫn đến nhiều trường hợp theo đúng “kiểu anh Hà” sau đó. Tuy nhiên, Hà cũng chỉ là nạn nhân của một nền bóng chuyền nghiệp dư, với sự nhốn nháo và bế tắc trong vấn đề chuyển nhượng cầu thủ.
Bản quy chế chuyển nhượng bị “chết yểu”
Nhìn từ câu chuyện Hữu Hà, có thể thấy cả một quá trình - từ thương thảo, ký hợp đồng đến thực thi hợp đồng - gần như chỉ là chuyện riêng của Hữu Hà với CLB Đức Long Gia Lai, mà không theo một chuẩn chung. Một khi hai bên không đạt được thỏa thuận riêng, tranh chấp lập tức xảy ra với đủ chuyện bi hài. Và bây giờ, nó lại xảy ra với chủ công hàng đầu quốc gia của Ngân hàng Công Thương Việt Nam Đinh Thị Thúy.
Từ năm 2010, bóng chuyền Việt Nam đã có Quy chế chuyển nhượng cầu thủ được đánh giá là tương đối đầy đủ, chặt chẽ, bám sát điều kiện trong nước cũng như học tập kinh nghiệm quốc tế. Chỉ có điều, ngay khi ra đời, coi như nó đã “chết yểu”.
Các CLB, cầu thủ đều không hề quan tâm và thực hiện quy chế. Thậm chí nhiều lãnh đội, HLV và hầu hết cầu thủ tới giờ vẫn… không biết đang có một Quy chế, chứ chưa nói đến các nội dung cụ thể. Càng đáng nói hơn bởi các cơ quan quản lý gần như đứng ngoài cuộc: Không tuyên truyền phổ biến, không phối hợp triển khai hay theo dõi giám sát thực tế...
Bài toán chuyển nhượng được đặt ra từ năm 2002 khi “búa máy” Bùi Thị Huệ qua 2 năm tha thiết xin đi vẫn đành ngậm ngùi ở lại Thái Bình với mức thu nhập mỗi tháng chưa nổi 1 triệu đồng cùng điều kiện tập luyện thi đấu nghèo nàn bậc nhất. Huệ khi đó gần như không có quyền được ra đi, còn đội bóng Thái Bình có muốn bán cũng không được vì không có “căn cứ nào”. Sự phức tạp và bế tắc lên tới đỉnh điểm với trường hợp của Hữu Hà năm 2009, dẫn đến việc Liên đoàn Bóng chuyền Việt Nam gấp rút hình thành Quy chế chuyển nhượng cầu thủ ngay một năm sau đó.
Rất bi hài vì đến thời điểm này, sau Hữu Hà, rất nhiều cầu thủ khác lại “vấp” theo cách hệt như cũ.
Rõ ràng việc chuyển nhượng cầu thủ thực sự đang là một vấn đề rất nóng và khó mà ngành thể thao cùng Liên đoàn Bóng chuyền Việt Nam phải tập trung tháo gỡ để tạo ra một “dòng chảy” lành mạnh, quan trọng cho sự phát triển. Trong đó, như khẳng định của ông Trần Đức Phấn, Tổng cục phó Tổng cục TDTT kiêm Phó Chủ tịch Liên đoàn Bóng chuyền Việt Nam, ngoài chuyện phải rà soát lại toàn bộ việc quản lý, chuyển nhượng cầu thủ để có những điều chỉnh cho phù hợp, các nhà quản lý sẽ siết chặt lại khâu cấp thẻ VĐV, cũng như kiểm tra quá trình ký kết hợp đồng chuyển nhượng hay hợp đồng lao động sao cho đúng luật. Riêng quy chế chuyển nhượng cũng sẽ được bổ sung cho sát thực tế hơn, và quan trọng là phải có tính khả thi.