Về xuất khẩu hàng hóa, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 11/2023 ước đạt 31,08 tỷ USD, tăng 6,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 8,49 tỷ USD, tăng 13,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 22,59 tỷ USD, tăng 4,4%. Đây là điểm sáng rất tích cực khi mức tăng trưởng của khối doanh nghiệp trong nước tăng cao, gấp 3 lần khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Tính chung 11 tháng năm 2023, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 322,50 tỷ USD, giảm 5,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 85,94 tỷ USD, giảm 2,2%, chiếm 26,6% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 236,56 tỷ USD, giảm 7,1%, chiếm 73,4%. Kim ngạch xuất khẩu mặc dù vẫn giảm so với cùng kỳ năm trước nhưng mức giảm trong tăng trưởng xuất khẩu đã thu hẹp đáng kể so với mức giảm 11,6% trong 6 tháng đầu năm 2023.
Trong 11 tháng năm 2023 có 33 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 93,1% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 07 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 66%). Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực có tốc độ tăng trưởng dương so với cùng kỳ năm trước: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 4,9 tỷ USD, tăng 20,2%; Điện thoại các loại và linh kiện đạt 4,7 tỷ USD, tăng 3,9%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 4 tỷ USD, tăng 5%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 1,2 tỷ USD, tăng 1,6%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 1,1 tỷ USD, tăng 2,9%; thủy sản đạt 800 triệu USD, tăng 1,4%; sắt thép đạt 586 triệu USD, tăng 25,4%.
Trong tháng 11 năm 2023, các sản phẩm của ngành nông nghiệp tiếp tục có những đóng góp ấn tượng, là điểm sáng trong hoạt động xuất khẩu cả nước, trong đó nhiều sản phẩm nông sản tăng cả về giá trị và lượng so với tháng trước như: Gạo đạt 462 triệu USD, tăng 13,5% (lượng tăng 10,2%); cao su đạt 343 triệu USD, tăng 16,6% (lượng tăng 14,5%); cà phê đạt 252 triệu USD, tăng 59,9% (lượng tăng 83%); sắn và sản phẩm của sắn đạt 151 triệu USD, tăng 10,6% (lượng tăng 11,8%); hạt tiêu đạt 77 triệu USD, tăng 4,9% (lượng tăng 3,1%); chè đạt 24 triệu USD, tăng 10,7% (lượng tăng 8,1%).
So cùng kỳ năm 2022, nhiều mặt hàng cũng tăng cả về giá trị và lượng như: Thủy sản tăng 1,4% (đạt 800 triệu USD); rau quả tăng mạnh nhất 65,2%; gạo tăng 59,6% (đạt 500 triệu USD, lượng tăng 19,3%); hạt điều tăng 30,7% (đạt 358 triệu USD, lượng tăng 34,5%); sắn và sản phẩm của sắn tăng 20% (lượng tăng 0,9%); hạt tiêu tăng 26,8% (lượng tăng 22,3%); chè đạt tăng 16,4% (lượng tăng 1,4%).
Tuy nhiên, tính chung 11 tháng năm 2023, chỉ có một số sản phẩm nông, thủy sản tăng cả về giá trị và lượng so với cùng kỳ năm 2022 như: Rau quả đạt 5,32 tỷ USD, tăng mạnh nhất 74,5%; gạo đạt 4,41 tỷ USD, tăng 36,3% (lượng tăng 16,2%); hạt điều đạt 331 tỷ USD, tăng 17,4% (lượng tăng 23,1%).
Trong 11 tháng năm 2023, Việt Nam đã xuất khẩu gần 7,8 triệu tấn gạo; 2,7 triệu tấn sắn và sản phẩm của sắn; 1,9 triệu tấn cao su; 1,4 triệu tấn cà phê.
Như vậy, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông, thủy sản trong tháng 11 ước đạt 3 tỷ USD, tăng 26,7% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây cũng là nhóm hàng duy nhất ghi nhận mức tăng trưởng dương trong 11 tháng năm 2023, với kim ngạch xuất khẩu ước đạt 29,5 tỷ USD, tăng 8,6%.
Nhập khẩu dần phục hồi
Về nhập khẩu hàng hóa, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 11/2023 ước đạt 29,8 tỷ USD, tăng 1% so với tháng trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 10,6 tỷ USD, giảm 0,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 19,2 tỷ USD, tăng 1,7%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng Mười Một tăng 5,1%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 4,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 5,6%.
Tuy nhiên, tính chung 11 tháng năm 2023, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 296,67 tỷ USD, giảm 10,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 105,94 tỷ USD, giảm 8,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 190,73 tỷ USD, giảm 11,7%.
Về cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu 11 tháng năm 2023, nhóm hàng tư liệu sản xuất ước đạt 278,18 tỷ USD, chiếm 93,8%, trong đó nhóm hàng máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng chiếm 45,6%; nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu chiếm 48,2%. Nhóm hàng vật phẩm tiêu dùng ước đạt 18,49 tỷ USD, chiếm 6,2%.
Một trong những điểm tích cực trong tháng 11 là kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng nguyên liệu phục vụ sản xuất tiếp tục tăng so với tháng trước: Máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 3,6 tỷ USD, tăng 0,9%; chất dẻo đạt 1,1 tỷ USD, tăng 21,1%; sản phẩm hóa chất đạt 750 triệu USD, tăng 15,9%; sản phẩm chất dẻo đạt 750 triệu USD, tăng 15,2%; hóa chất đạt 700 triệu USD, tăng 2,4%; kim loại thường khác đạt 688 triệu USD, tăng 4,5%; nguyên phụ liệu dệt, may, giày, dép đạt 650 triệu USD, tăng 30,9%; sản phẩm từ sắt thép đạt 650 triệu USD, tăng 30,4%; cao su đạt 299 triệu USD, tăng 53%.
So với cùng kỳ năm trước, nhiều mặt hàng cũng đạt giá trị tăng: Điện tử, máy tính và linh kiện tăng tới 40% (đạt 7,9 tỷ USD); chất dẻo tăng 13,6%; sản phẩm hóa chất tăng 12,3%; sản phẩm chất dẻo tăng 13,9%; hóa chất tăng 7,8%; nguyên phụ liệu dệt, may, giày, dép tăng 30,7%; sản phẩm từ sắt thép tăng 28,9%; cao su tăng 24,7%.
Trong 11 tháng năm 2023 có 43 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 92,2% tổng kim ngạch nhập khẩu (có 03 mặt hàng nhập khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 43,3%). Trong đó điện tử, máy tính và linh kiện đạt 79,2 tỷ USD, tăng 4,1%; tân dược đạt 3,3 tỷ USD, tăng 7,3%; hạt điều đạt 3 tỷ USD, tăng 17,6%; dây điện và cáp điện đạt 2,3 tỷ USD, tăng 4,9%; sản phẩm từ kim loại thường khác đạt 2,1 tỷ USD, tăng 11,1%; sản phẩm khác từ dầu mỏ đạt 1,6 tỷ USD, tăng 13,1%; thủy tinhvà sản phẩm từ thủy tinh đạt 1,5 tỷ USD, tăng 4,9%; khí đốt hóa lỏng đạt 1,5 tỷ USD, tăng 2,7%.
Do nhập khẩu giảm mạnh hơn so với xuất khẩu (xuất khẩu giảm 5,9%, nhập khẩu giảm 10,7%) nên cán cân thương mại của Việt Nam trong 11 tháng tiếp tục xuất siêu 25,83 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 10,3 tỷ USD). Trong đó, xuất siêu thuộc về khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) với mức xuất siêu 45,82 tỷ USD; khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 19,99 tỷ USD.