Trong bối cảnh đó, Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân ra đời như một bước nhảy vọt chiến lược, kịp thời tiếp sức cho công cuộc đổi mới. Nghị quyết 68-NQ/TW đề ra những định hướng đột phá nhằm giải phóng mọi nguồn lực, đặc biệt nhấn mạnh tinh gọn bộ máy và chuyển đổi số là những nền tảng quan trọng giúp triển khai hiệu quả các mục tiêu đề ra.
1. Qua gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu phát triển vượt bậc về kinh tế và an sinh xã hội. Tuy nhiên, chặng đường phía trước vẫn còn nhiều thách thức lớn, đất nước không thể “ngủ quên trên vòng nguyệt quế” mà phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa. Trong giai đoạn hiện nay, bối cảnh quốc tế có nhiều biến động lớn và bất ngờ: cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc ngày càng gay gắt, tăng trưởng kinh tế toàn cầu suy giảm, xu hướng bảo hộ gia tăng, trong khi cuộc cách mạng công nghệ bùng nổ với AI, IoT, công nghệ sinh học, lượng tử... tác động sâu rộng lên mọi mặt của đời sống. Những biến động đó vừa tạo ra cơ hội phát triển mới, vừa đặt ra yêu cầu cấp bách buổi Việt Nam phải đổi mới tư duy, tầm nhìn và hành động quyết liệt hơn nữa.
Trong nước, khu vực kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định vai trò là động lực tăng trưởng quan trọng của nền kinh tế. Đặc biệt từ sau Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Trung ương khóa XII do Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ đạo ban hành, kinh tế tư nhân đã được xác định là “một động lực quan trọng” của nền kinh tế. Đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân ngày càng lớn, trong giai đoạn từ 2017 đến nay, bình quân kinh tế tư nhân tạo việc làm cho hơn 43,5 triệu lao động (chiếm hơn 82% tổng số việc làm); tỷ trọng vốn đầu tư tư nhân trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng từ 44% (2010) lên 56% (2024); khu vực tư nhân cũng đóng góp khoảng 30% ngân sách nhà nước và khoảng 30% kim ngạch xuất nhập khẩu; từ năm 1990, Việt Nam có khoảng 5.000 doanh nghiệp, đến năm 2000 là tăng gấp mười lần đạt con số 50.000 và tiếp tục tăng bốn lần đạt con số 200.000 vào năm 2005, đến nay, cả nước có gần 1.000.000 doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động, chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế.
Tuy nhiên, kinh tế tư nhân vẫn chưa phát huy hết tiềm năng, vẫn còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với kỳ vọng. Nguyên nhân chủ yếu là do thể chế, pháp luật còn nhiều “điểm nghẽn”, thủ tục hành chính còn rườm rà, nhiều quy định trong kinh doanh còn bất cập chưa được sửa đổi kịp thời; bản thân doanh nghiệp tư nhân còn yếu về vốn, công nghệ và năng lực quản lý. Một bộ phận cán bộ thuộc các cơ quan quản lý nhà nước còn tư duy “xin - cho”; tình trạng nhũng nhiễu, lợi ích nhóm, tham nhũng còn tồn tại. Rõ ràng, sau nhiều năm khuyến khích, khu vực tư nhân vẫn cần một cú hích mạnh hơn nữa về chính sách để vươn lên thành động lực chủ chốt, quan trọng nhất của nền kinh tế trong giai đoạn mới.
Trong bối cảnh đó, Nghị quyết 68-NQ/TW được Bộ Chính trị ban hành vào đúng thời điểm mang tính bước ngoặt; đây là kết quả của quá trình chuẩn bị công phu của từ Chính phủ thành lập Ban chỉ đạo xây dựng Đề án phát triển kinh tế tư nhân do chính Thủ tướng làm Trưởng ban, huy động sự tham gia góp ý rộng rãi và thường xuyên báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đặc biệt là chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm. Có thể thấy, Nghị quyết 68-NQ/TW là kết tinh tầm nhìn chiến lược của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, kế thừa định hướng nhất quán của Đảng qua các nhiệm kỳ. Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh những đổi mới, cải cách hiện nay không chỉ xuất phát từ yêu cầu khách quan của phát triển, mà còn là “mệnh lệnh từ tương lai của dân tộc”, đòi hỏi chúng ta phải hành động khẩn trương, quyết liệt để đưa đất nước vào kỷ nguyên phát triển thịnh vượng, hùng cường.
![]() |
Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu tại Hội nghị quán triệt và triển khai Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân. Ảnh: VGP |
2. Nghị quyết 68-NQ/TW thể hiện một bước tiến lớn cả về tư duy lý luận và định hướng hành động của Đảng ta trong phát triển kinh tế. Lần đầu tiên kinh tế tư nhân được khẳng định là “một động lực quan trọng nhất” của nền kinh tế quốc gia trong mô hình kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Đây là sự kế thừa và nâng tầm so với quan điểm tại Nghị quyết 10 năm 2017 cũng như đánh dấu thay đổi mang tính lịch sử trong nhận thức chiến lược: từ chỗ thừa nhận vai trò khu vực tư nhân, nay chuyển sang “bảo vệ, khuyến khích, thúc đẩy” khu vực này phát triển lên một tầm cao mới.
Theo Tổng Bí thư Tô Lâm, quan điểm mới đó đã đưa kinh tế tư nhân từ vị trí bổ trợ trở thành một trụ cột phát triển ngang hàng với kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, tạo thành thế “kiềng ba chân” vững chắc cho nền kinh tế độc lập, tự chủ trong hội nhập. Phát triển kinh tế tư nhân không chỉ là vấn đề kinh tế thuần túy, mà còn là “mệnh lệnh” của sự nghiệp phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
Về mục tiêu cụ thể, Nghị quyết 68-NQ/TW đặt ra những chỉ tiêu rất cao, thể hiện khát vọng, quyết tâm vươn lên mạnh mẽ. Đến năm 2030, phấn đấu có ít nhất 2.000.000 doanh nghiệp hoạt động (tương đương với trong 50 người dân thì phải có 1 doanh nghiệp), khu vực kinh tế tư nhân đóng góp 55-58% GDP, góp 35-40% ngân sách và tạo ra 84-85% việc làm cho trong toàn thể xã hội; năng suất lao động khu vực tư nhân tăng bình quân 8,5-9%/năm, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt khoảng 10-12%/năm. Tầm nhìn đến năm 2045, số doanh nghiệp đạt khoảng 3.000.000, đóng góp tối thiểu 60% GDP. Nghị quyết cũng nhấn mạnh mục tiêu nâng cao chất lượng, đến năm 2030 ít nhất phải có 20 doanh nghiệp tư nhân lớn của Việt Nam tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, và phải tăng lên ít nhất 50 doanh nghiệp vào năm 2045. Những mục tiêu táo bạo này cho thấy quyết tâm đưa khu vực tư nhân thành động lực trung tâm của nền kinh tế nước nhà.
![]() |
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính truyền đạt "Nội dung trọng tâm, cốt lõi của Nghị quyết số 68-NQ/TW. Ảnh: Báo ĐBND |
Để thực hiện được tầm nhìn đó, Nghị quyết 68-NQ/TW đề ra 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong thời gian tới; các giải pháp mang tính toàn diện, đồng bộ nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho kinh tế tư nhân bứt phá, cụ thể:
Thứ nhất, đổi mới tư duy và thống nhất nhận thức về phát triển kinh tế tư nhân: xóa bỏ mọi định kiến, rào cản đối với kinh doanh chính đáng; nâng cao nhận thức của hệ thống chính trị rằng phát triển kinh tế tư nhân là xu thế tất yếu và là nhiệm vụ lâu dài. Tạo sự đồng thuận cao về việc khuyến khích làm giàu chính đáng, coi thành công của doanh nghiệp tư nhân là thành công của đất nước.
Thứ hai, hoàn thiện thể chế, cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh: đẩy mạnh cải cách pháp luật, chính sách theo hướng minh bạch, công bằng, cạnh tranh lành mạnh. Loại bỏ các quy định chồng chéo, thủ tục hành chính rườm rà; chuyển từ nền hành chính quản lý là chủ yếu sang nền hành chính phục vụ và kiến tạo phát triển, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm. Đặc biệt, Nghị quyết yêu cầu phân định rõ trách nhiệm hình sự với trách nhiệm hành chính, dân sự trong xử lý vi phạm kinh tế; quán triệt nguyên tắc “không hình sự hóa các quan hệ kinh tế, dân sự” khi chưa thực sự cần thiết. Đây là điểm đột phá rất quan trọng, thay đổi tư duy pháp lý từ “quản lý để kiểm soát” sang “quản lý để phục vụ”, từ “trừng phạt răn đe” sang “hỗ trợ để phục hồi, phát triển” nhằm tạo niềm tin, động lực cho doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư, kinh doanh.
Thứ ba, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tư nhân tiếp cận các nguồn lực: Nghị quyết đề ra các giải pháp để doanh nghiệp tư nhân được tiếp cận bình đẳng về vốn, tín dụng, đất đai, tài nguyên, cơ hội đầu tư... khuyến khích các ngân hàng, tổ chức tài chính hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hoàn thiện cơ chế, chính sách về đất đai, đấu thầu, đầu tư công theo hướng công khai, minh bạch để khu vực tư nhân có thể tham gia vào các lĩnh vực.
Thứ tư, thúc đẩy ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong khu vực tư nhân: giúp doanh nghiệp nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh. Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, nghiên cứu phát triển ứng dụng các công nghệ mới trong cuộc cách mạnh công nghiệp lần thứ 4. Phát triển hệ thống sinh thái đổi mới, sáng tạo, các trung tâm khởi nghiệp, quỹ đầu tư mạo hiểm... để hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân, nhất là doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.
Thứ năm, tăng cường liên kết giữa kinh tế tư nhân với kinh tế nhà nước và FDI: thúc đẩy hợp tác, hình hành các chuỗi giá trị trong nước, cụm liên kết ngành giữa doanh nghiệp trong nước với FDI và doanh nghiệp nhà nước. Mục tiêu giúp doanh nghiệp tư nhân trong nước tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, nâng cao giá trị gia tăng trong nước. Phát triển các hình thức đối tác công - tư trong đầu tư phát triển hạ tầng, dịch vụ công.
Thứ sáu, hình thành và phát triển một số tập đoàn kinh tế tư nhân, thương hiệu mạnh có khả năng cạnh tranh trong khu vực và quốc tế: Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp có tiềm năng vươn lên thông qua cơ chế vốn, thuế, đất đai phù hợp; tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân lớn tham gia các dự án quan trọng của quốc gia. Mục tiêu tạo dựng nhiều doanh nghiệp tư nhân Việt Nam đạt đẳng cấp trong khu vực, dẫn dắt các ngành kinh tế mũi nhọn trong nước.
Thứ bảy, phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam lớn mạnh về cả số lượng và chất lượng: doanh nhân không chỉ giỏi làm kinh tế, mà còn cần có bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp, tinh thần dân tộc và trách nhiệm xã hội. Nghị quyết khẳng định đội ngũ doanh nhân là “những chiến sĩ trên mặt trận kinh tế” trong thời kỳ mới, có sứ mệnh cao cả xây dựng đất nước hùng cường. Do đó, cần xây dựng văn hóa kinh doanh lành mạng, tôn vinh doanh nhân tiêu biểu, đồng thời tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ quản lý cho doanh nhân Việt Nam.
Thứ tám, đổi mới phương thức lãnh đạo, quản lý và nâng cao hiệu quả bộ máy nhà nước phục vụ phát triển kinh tế tư nhân: Đảng và Nhà nước phải tăng cường vai trò kiến tạo, xây dựng bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, phòng chống tham nhũng, tiêu cực, bảo đảm môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng. Nghị quyết yêu cầu nâng cao trách nhiệm thực thi của đội ngũ cán bộ, công chức; lấy kết quả hỗ trợ phát triển doanh nghiệp làm thước đo đánh giá hiệu quả công việc. Đồng thời đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cải cách thủ tục hành chính; ứng dụng chuyển đổi số trong quản trị công để giảm tươngt ác trực tiếp, ngăn ngừa hành vi nhũng nhiễu. Tất cả nhằm xây dựng một môi trường đầu tư, kinh doanh an toàn, thuận lợi nhất cho người dân và doanh nghiệp.
Những nội dung cốt lõi trên cho thấy Nghị quyết 68-NQ/TW mang tầm bao quát lớn, tác động đến nhiều lĩnh vực từ thế chế, hành chính, tư pháp cho đến khoa học, công nghệ, nhân lực... Mục tiêu cuối cùng là tạo ra sự chuyển biến toàn diện về chính sách phát triển kinh tế tư nhân, chuyển hẳn trọng tâm từ quản lý, kiểm soát sang hỗ trợ, dẫn dắt phát triển. Điều này được đánh giá là “sự lựa chọn chiến lược đúng đắn, cấp thiết, mang tầm nhìn dài hạn” nhằm giải phóng sức sane xuất, hiện thực hóa khát vọng đưa dân tộc vào kỷ nguyên vươn mình. Với tầm quan trọng đó, Nghị quyết 68-NQ/TW được Tổng Bí thư Tô Lâm ví như một trong “bốn trụ cột” chính sách giúp Việt Nam cất cánh trong giai đoạn tới. Thành công của Nghị quyết sẽ phục thuộc vào việc chúng ta có triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp đề ra hay không, từ chuyển đổi số, đến tinh giải bộ máy hành chính.
3. Nghị quyết 68-NQ/TW ra đời đồng thời với làn sóng chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội. Đảng và Nhà nước xác định chuyển đổi số là một đột phá chiến lược, là động lực chủ yếu để hiện đại hóa đất nước và đổi mới phương thức quản lý quốc gia. Tháng 12/2024, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, trong đó nêu rõ: phát triển và ứng dụng công nghệ số phải trở thành nền tảng phát triển và lực đẩy chủ yếu cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong kỷ nguyên mới.
Trước hết, chuyển đổi số giúp cải thiện mạnh mẽ môi trường kinh doanh. Việc phát triển Chính phủ điện tử, cung cấp dịch vụ công trực tuyến, qua đó thu hẹp dư địa của tham nhũng vặt, chi phí không chính thức. Như Tổng Bí thư đã chỉ rõ, “từ quản lý sang phục vụ” chính là một chuyển đổi tư duy căn bản trong quản lý nhà nước, được hỗ trợ đắc lực nhờ công nghệ số. Khi thủ tục hành chính được số hóa, doanh nghiệp có thể đăng ký kinh doanh, nộp thuế, xin cấp phép đầu tư... hoàn toàn trực tuyến một cách minh bạch, thuận tiện. Điều này vừa tiết kiệm thời gian, chi phí cho doanh nghiệp vừa thúc đẩy tính công khai, bình đẳng trong tiếp cận dịch vụ công.
Bên cạnh đó, chuyển đổi số mở ra cơ hội mới cho doanh nghiệp tư nhân nâng cao năng lực cạnh tranh. Công nghệ số như thương mại điện tử, marketing số giúp doanh nghiệp tiếp cận thị trường dễ dàng hơn; công nghệ tự động hóa, dữ liệu lớn giúp doanh nghiệp tối ưu hóa mô hình kinh doanh, tạo giá trị gia tăng cao hơn. Nhiều doanh nghiệp tư nhân trong nước đã nhanh chóng nắm bắt xu hướng này, tiên phong áp dụng các nền tảng số và đạt tăng trưởng ấn tượng. Số liệu cho thấy khu vực tư nhân cũng là khu vực năng động nhất trong đổi mới sáng tạo, số lượng startup công nghệ tăng nhanh trong thời gian qua, giúp Việt Nam dần trở thành một trung tâm khởi nghiệp đang lên ở Châu Á.
Quan trọng hơn, chuyển đổi số và tinh gọn bộ máy có mối quan hệ tương hỗ chặt chẽ. Hạ tầng số và dữ liệu số cho phép tổ chức lại bộ máy các cấp gọn nhẹ và hiệu quả hơn hẳn so với phương thức quản lý truyền thống. Khi xây dựng được hệ thống dữ liệu “đúng, đủ, sạch, sống” và chia sẻ, nhiều khâu trung gian, nhiều tầng nấc quản lý có thể cắt giảm, giúp bộ máy tinh giản mà vẫn hiệu suất. Chẳng hạn, việc kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, doanh nghiệp, đất đai... sẽ đơn giản hóa thủ tục, một cửa liên thông, giảm nhu cầu biên chế dư thừa.
Ngược lại, một bộ máy tinh gọn cũng là tiền đề để chuyển đổi số thành công, bởi khi đó guồng máy hành chính sẽ linh hoạt hơn trong tiếp thu công nghệ mới, ít cồng kềnh hơn để có thể “chuyển đổi” nhanh chóng. Do đó, có thể nói chuyển đổi số thúc đẩy tinh gọn bộ máy, tinh gọn bộ máy tạo thuận lợi cho chuyển đổi số, cả hai cùng hướng tới mục tiêu xây dựng nền quản lý quốc gia hiện đại, hiệu quả, tạo đà cho phát triển đất nước, phát triển kinh tế tư nhân.
Nhận thức rõ tầm quan trọng đó, từ sớm, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đặt nền móng cho tiến trình chuyển đổi số hiện nay. Dưới sự lãnh đạo của ông, Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, lần đầu xác định các mục tiêu, chính sách cho chuyển đổi số quốc gia. Tiếp đó, trong các văn kiện Đại hội XIII (2021), định hướng chuyển đổi số, phát triển kinh tế số đã được đưa vào như một trọng tâm chiến lược. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng luôn nhấn mạnh nguyên tắc cải cách thể chế phải đi trước một bước để thu hút nguồn lực cho chuyển đổi số, đồng thời gắn chuyển đổi số với yêu cầu tinh gọn bộ máy và đảm bảo an ninh, an toàn trong môi trường số. Những định hướng quan trọng đó của ông đã tạo tiền đề tư tưởng, chính sách hiện tại, dưới sự chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm, công cuộc chuyển đổi số được triển khai quyết liệt, đồng bộ trên phạm vi cả nước.
4. Cùng với chuyển đổi số, cải cách tổ chức bộ máy hành chính là trụ cột không thể thiếu để thực hiện thắng lợi Nghị quyết 68-NQ/TW. Một bộ máy quản lý nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả sẽ giúp các chính sách hỗ trợ kinh tế tư nhân được thực thi thông suốt từ trung ương đến địa phương, giảm độ trễ và giảm thiểu thất thoát, lãng phí nguồn lực.
Nhận thức rõ điều này, trong thời gian qua, Đảng ta đã phát động một cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy mạnh mẽ trong toàn thể hệ thống chính trị, đặc biệt kể từ sau Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội nghị Trung ương 6 khóa XII do cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Tringj khởi xướng về sắp xếp tổ chức bộ máy. Tới nay, việc triển khai công cuộc tinh gọn bộ máy đã thu được những kết quả đặc biệt lớn, tích cực, tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn phát triển tiếp theo.
![]() |
Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Trung ương 6, Ban Chấp hành TW Đảng Khóa XII. Ảnh: Báo Điện tử Chính phủ |
Về tổ chức ở cấp trung ương, cơ cấu Chính phủ nhiệm kỳ 2021-2026 đã giảm xuống còn 17 bộ, cơ quan ngang bộ (14 bộ và 3 cơ quan ngang bộ), giảm 5 đầu mối so với trước đây. Toàn bộ 13 Tổng cục và tương đương trong các Bộ đã được xóa bỏ; số lượng cục vụ, vụ, ban ngành thuộc Bộ cũng cắt giảm mạnh, giảm 519 cục, 219 vụ và hơn 3.300 chi cục cấp dưới.
Ở địa phương, 63 tỉnh thành đã đồng loạt sắp xếp lại cơ quan chuyên môn, giảm 343 phòng ban cấp tỉnh và 1.454 phòng ban cấp huyện trên cả nước.
Song song với sắp xếp tổ chức, việc tinh giản biên chế cũng đạt kết quả rõ rệt. Tính đến cuối năm 2024, tổng số biên chế công chức, viên chức trong cả nước đã giảm khoảng 22.323 người, tương đương giảm 20% so với trước khi thực hiện Nghị quyết 18, Điều đáng ghi nhận là quá trình cắt giảm nhân sự này gắn liền với nâng cao chất lượng đội ngũ, xác định rõ vị trí việc làm đúng người, đúng việc. Nhiều văn bản luật và Nghị định mới được ban hành kịp thời nhằm thể chế hóa việc tổ chức bộ máy tinh gọn, tránh cắt giảm cơ hội mà hướng đến mô hình tổ chức khoa học, hiện đại và phục vụ tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp.
Trong thời gian tới (tháng 7/2025), sẽ còn tiếp tục sắp xếp đơn vị hành chính, bỏ cấp huyện trung gian, chính quyền địa phương hoạt động theo mô hình hai cấp tỉnh và xã, tiến tới rút ngắn quy trình quản lý, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản trị và phục vụ người dân, doanh nghiệp.
Những con số biết nói trên cho thấy quyết tâm rất lớn của Đảng và Chính phủ trong cải cách bộ máy hành chính, Dưới sự chỉ đạo kiên quyết của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiệm kỳ trước và sự tiếp nối một cách quyết liệt bởi Tổng Bí thư Tô Lâm hiện nay, chủ trương tinh gọn bộ máy đã chuyển hóa thành hành động cụ thể, thay đổi triệt để bộ máy hành chính. Bộ máy nhà nước gọn nhẹ hơn, giảm chồng chéo, trùng lặp, trung gian, qua đó tiết kiệm nguồn lực đáng kể cho xã hội và tăng cường hiệu quả quản lý. Một điều quan trọng không kém, một bộ máy tinh giản sẽ gần dân và sát doanh nghiệp hơn, cán bộ công chức đảm đương đa nhiệm và chịu trách nhiệm cao hơn, từ đó giảm bớt tình trạng quan liêu, nhũng nhiễu. Như Thủ tướng Phạm Minh Chính chỉ ra, một nguyên nhân cản trở kinh tế tư nhân lâu nay là tư duy “xin - cho” và nạn nhũng nhiễu trong một bộ phận công chức. Khi tổ chức bộ máy được tinh gọn, cơ chế giám sát, kiểm soát quyền lực cũng hiệu quả hơn, góp phần ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực nói trên. Điều này tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh, minh bạch, doanh nghiệp được phục vụ chứ không phải “xin”, qua đó củng cố niềm tin của nhà đầu tư, chủ doanh nghiệp.
Một mặt khác quan trọng là quá trình tinh gọn bộ máy gắn liền với cải cách thủ tục hành chính và ứng dụng chuyển đổi số. Chính phủ đã và đang đẩy mạnh cắt giảm, đơn giản hóa các thủ tục kinh doanh trên nhiều lĩnh vực; triển khai cơ chế một cửa liên thông và cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình ở mức độ cao. Bộ máy gọn nhẹ hơn sẽ linh hoạt trong việc áp dụng các quy trình điện tử, liên thông dữ liệu giữa các cơ quan. Ngược lại, nhiều thủ tục giấy tờ truyền thống khi được số hóa sẽ tự động tinh giản nhu cầu nhân lực dư thừa. Điển hình như Đề án 06 của Chính phủ về ứng dụng dữ liệu dân cư, định danh điện tử, khi người dân, doanh nghiệp sử dụng thẻ căn cước gắn chip và các cơ sở dữ liệu quốc gia để giao dịch hành chính, rất nhiều giấy tờ, khâu xác minh trung gian đã được lược bỏ, giảm tải đáng kể cho bộ máy. Có thể nói tinh gọn bộ máy và chuyển đổi số đang được tiến hành song song, bổ trợ lẫn nhau nhằm xây dựng nền hành chính “tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả” đúng như yêu cầu trong Nghị quyết 68, phục vụ phát triển kinh tế tư nhân và toàn thể kinh tế.
5. Với Nghị quyết 68-NQ/TW, Đảng ta một lần nữa khẳng định kinh tế tư nhân là động lực phát triển quan trọng hàng đầu trong giai đoạn mới. Đây là sự tiếp nối tư duy đổi mới nhất quán suốt gần 40 năm, nhưng cũng là bước chuyển có tính cách mạng về thể chế kinh tế. Nếu như trước đây, chúng ta chỉ “thừa nhận” sự tồn tại của kinh tế tư nhân, thì nay là “bảo vệ, khuyến khích, thúc đẩy” kinh tế tư nhân vươn lên dẫn dắt nền kinh tế. Sự chuyển biến này phản ánh tầm nhìn chiến lược dài hạn của các thế hệ lãnh đạo Đảng. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với vai trò “kiến trúc sư trưởng” của công cuộc chỉnh đốn Đảng và cải cách thể chế giai đoạn trước đã đặt nền móng tư tưởng và cơ sở chính trị vững chắc, để đến nay dưới sự dẫn dắt của Tổng Bí thư Tô Lâm, Đảng ta đủ tự tin thực hiện những đột phá táo bạo vì lợi ích của cộng đồng doanh nghiệp và người dân.
Việc ban hành Nghị quyết 68-NQ/TW của Tổng Bí thư Tô Lâm quả thực đúng thời điểm, hội tụ thiên thời - địa lợi - nhân hòa để kinh tế tư nhân cất cánh, những nền tảng quan trọng như chuyển đổi số và bộ máy tinh gọn đã cơ bản được định hình, sẵn sàng cho giai đoạn tăng tốc mới. Niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp đang dần được củng cố khi tư duy quản lý thay đổi theo hướng hỗ trợ, đồng lòng thay vì trừng phạt, ràng buộc. Giới doanh nhân với vai trò là những “chiến sĩ trên mặt trận kinh tế” có thêm động lực và khát vọng để vươn lên làm giàu chính đáng cho mình và góp phần làm giàu cho đất nước.
Tất nhiên, chặng đường phía trước không thiếu những khó khăn, thách thức về và chủ quan lẫn khách quan, các thế lực thù địch, trung tâm phá hoại tư tưởng vẫn không ngừng tuyên truyền xuyên tạc, chống phá các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; ngay sau khi ban hành Nghị quyết 68-NQ/TW các thế lực thù địch, trung tâm phá hoại tư tưởng, đối tượng chính trị đã có những luận điệu xuyên tạc, nhạy cảm, đặt vấn đề Hiến pháp năm 2013 xác định, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, Quốc hội đang lấy ý kiến sửa đổi Hiến pháp 2013 nhưng không thấy sửa đổi điều này; các văn bản quy phạm pháp luật khác như Luật Quản lý vốn nhà nước 2014, Luật Doanh nghiệp 2020 đều xác định doanh nghiệp nhà nước là công cụ quan trọng để Nhà nước điều tiết kinh tế. Từ đó quy chụp lời nói và hành động của Đảng, Nhà nước chưa song hành, chính sách và thể chế còn "độ vênh", chưa xác lập rõ địa vị pháp lý bình đẳng cho doanh nghiệp tư nhân; đặt ra yêu cầu sửa đổi Hiến pháp một cách toàn diện, trong đó đòi bỏ vai trò Lãnh đạo của Đảng với Nhà nước và xã hội; đòi quyền tự do hội họp, lập hội; báo chí tư nhân, tự do ngôn luận, cụ thể:
Thứ nhất, xuyên tạc việc Nghị quyết 68-NQ/TW xác định "kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế", tức là còn nhiều thành phần kinh tế khác cùng có vai trò quan trọng nhất, đặt dưới vai trò chủ đạo của "kinh tế nhà nước" theo Hiến pháp, vì vậy không có thay đổi về bản chất và cho rằng cần phải chờ xem Nghị quyết được triển khai thế nào, chứ không phải chỉ nghe Nghị quyết nói.
Thứ hai, nhân việc triển khai Nghị quyết 68-NQ/TW để đề ra yêu sách, yêu cầu phải có cơ chế để người dân, doanh nghiệp chỉ ra những tồn tại, hạn chế của thể chế, những rào cản dưới luật mà các bộ, ngành, địa phương đặt ra, cụ thể đề nghị hợp thức việc lập hội, báo chí tư nhân.
Thứ ba, nêu "nút thắt" hiện nay phụ thuộc vào 3 "trụ cột", trong đó phải có thể chế tốt, nhà nước mạnh phải thuận theo kinh tế thị trường (kinh tế tư bản), bên cạnh đó phải mở rộng không gian cho tự do dân chủ.
Thứ tư, cho rằng tồn tại mâu thuẫn trong "sở hữu toàn dân về đất đai" với phát triển kinh tế tư nhân, nhân đó đòi hỏi phải thay đổi cơ chế.
Những luận điệu xuyên tạc trên đều mang tính chất phiến diện, suy diễn áp đặt và cố tình bóp méo bản chất các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Chúng lợi dụng việc triển khai các nghị quyết mới, đặc biệt là Nghị quyết 68-NQ/TW, để gieo rắc nghi ngờ, kích động sự hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về sự cần thiết của doanh nghiệp nhà nước và mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việc cố tình đối lập “kinh tế nhà nước” và “kinh tế tư nhân”, hoặc suy diễn rằng thể chế hiện hành “cản trở tự do dân chủ” là sự bóp méo thực tiễn. Trên thực tế, Đảng và Nhà nước luôn chủ trương xây dựng một môi trường thể chế lành mạnh, minh bạch, công bằng, trong đó mọi thành phần kinh tế đều được tạo điều kiện phát triển bình đẳng, trong khuôn khổ pháp luật và lợi ích quốc gia, dân tộc.
Hơn nữa, việc đòi “bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng”, “tự do báo chí tư nhân”, hay “thay đổi cơ chế về đất đai” không phải là những đóng góp mang tính xây dựng, mà là chiêu trò nhằm từng bước phá bỏ nền tảng chính trị của đất nước, gây bất ổn thể chế, đi ngược lại lợi ích lâu dài của dân tộc.
Kiên định với đường lối của Đảng, hướng tới mục tiêu phát triển của đất nước như Tổng Bí thư Tô Lâm phân tích, những đổi mới cải cách hiện nay không chỉ là yêu cầu tự thân, mà còn là mệnh lệnh từ tương lai, là xu thế tất yếu để Việt Nam nắm bắt thời cơ, vươn lên mạnh mẽ trong kỷ nguyên số hóa toàn cầu. Chúng ta đang đứng trước “thời cơ vàng”, kinh tế đã tích lũy đủ độ chín sau 40 năm đổi mới, công nghệ số mở ra cơ hội phát triển nhảy vọt, toàn dân tràn đầy khát vọng vươn lên sánh vai cường quốc.
Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị chính là kim chỉ nam để biến những “lực” và “khát vọng” đó thành sức mạnh thực tế, tạo bứt phá cho kinh tế tư nhân và cả nền kinh tế dân tộc. Chặng đường phía trước đòi hỏi sự vào cuộc đồng bộ của hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của đội ngũ doanh nhân, trí thức và các tầng lớp nhân dân. Từ việc hoàn thiện pháp luật đến cải cách bộ máy, từ đầu tư hạ tầng số đến đào tạo nhân lực, mọi nỗ lực cần được phối hợp nhịp nhàng, dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng. Có như vậy những mục tiêu cao cả mà Nghị quyết 68-NQ/TW đề ra mới trở thành hiện thực.
Cuối cùng, Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân là bước nhảy vọt kịp thời đưa Việt Nam vào quỹ đạo tăng trưởng mới, quỹ đạo của kỷ nguyên vươn mình. Nghị quyết kết tinh tầm nhìn xa trông rộng và ý chí đổi mới của Bộ Chính trị hiện nay dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm, đồng thời kế thừa thành quả và nền tảng do các thế hệ tiền nhiệm xây dựng, Với việc nhấn mạnh trụ cột, nền tảng chuyển đổi số và tinh gọn bộ máy, Đảng ta cho thấy quyết tâm đổi mới căn bản phương thức phát triển, tạo bệ phóng cho kinh tế tư nhân cất cánh, trở thành động lực chủ lực của nền kinh tế quốc dân. Nếu triển khai hiệu quả, và nhất định hiệu quả, Nghị quyết 68-NQ/TW sẽ góp phần đưa Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình, tiến tới mục tiêu một nước phát triển, phồn vinh vào năm 2045 như khát vọng của toàn dân tộc.
Đây chính là thời khắc cả nước chung tay, đồng lòng, biến khát vọng thành hành động, biến tiềm năng thành sức mạnh để đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên vươn mình, đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên thịnh vượng, hùng cường dưới ngọn cờ lãnh đạo sáng suốt của Đảng.
Con đường hướng tới mục tiêu quốc gia thịnh vượng, thu nhập cao vào năm 2045 đang trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết!


