Cấm đòi nợ người không liên quan
Luật sư Hoàng Văn Chung, Giám đốc Công ty Luật TNHH Việt Khoa, Đoàn Luật sư TP.HCM cho rằng, anh N.L ở TP.HCM (người bị VietCredit và Mirae Asset đòi nợ vô cớ mà loạt bài đã nêu – PV) hay các trường hợp khác tương tự khi bị nhắn tin, gọi điện đòi nợ dù không vay tiền, chủ sở hữu sim, số điện thoại có thể thực hiện các biện pháp sau đây:
Thứ nhất, giữ bình tĩnh và thu thập thông tin: Sử dụng ứng dụng ghi âm cuộc gọi hoặc ghi âm bằng điện thoại khác để lưu lại bằng chứng về lời đe dọa; Chụp ảnh màn hình hoặc lưu lại tin nhắn đe dọa để làm bằng chứng; Ghi lại số điện thoại, tên người gọi/nhắn tin, nội dung đe dọa và bất kỳ thông tin nào khác có thể giúp xác định người đòi nợ.
Thứ hai, giải thích rằng bản thân không vay tiền và không liên quan đến khoản nợ; yêu cầu người đòi nợ cung cấp thông tin cụ thể về khoản nợ như tên người vay, số tiền vay, thời hạn vay, lãi suất vay, hợp đồng vay (nếu có),... Khẳng định không có trách nhiệm trả khoản nợ và từ chối mọi yêu cầu chuyển tiền.
Thứ ba, tập hợp thông tin, chứng cứ đăng ký chủ sim theo quy định và gửi đơn đến đơn vị cho vay để chứng minh không liên quan và yêu cầu ngân hàng, công ty tài chính gỡ số điện thoại khỏi thông tin liên hệ thu hồi nợ. Trường hợp vẫn tiếp diễn thì gửi đơn đến cơ Thanh tra Ngân hàng để tố giác vi phạm các quy định về thu hồi nợ theo quy định tại của pháp luật.
![]() |
Luật sư Hoàng Văn Chung, Giám đốc Công ty Luật TNHH Việt Khoa, Đoàn Luật sư TP.HCM |
Bởi tại điểm đ khoản 2 Điều 7 Thông tư 43/2016/TT-NHNN (được sửa đổi bởi khoản 7 Điều 1 Thông tư 18/2019/TT-NHNN) quy định như sau:
Biện pháp đôn đốc, thu hồi nợ phù hợp với đặc thù của khách hàng, quy định của pháp luật và không bao gồm biện pháp đe dọa đối với khách hàng, trong đó số lần nhắc nợ tối đa 05 (năm) lần/01 (một) ngày, hình thức nhắc nợ, thời gian nhắc nợ do các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho vay tiêu dùng nhưng phải trong khoảng thời gian từ 7 (bảy) giờ đến 21 (hai mươi mốt) giờ;
Không nhắc nợ, đòi nợ, gửi thông tin về việc thu hồi nợ của khách hàng đối với tổ chức, cá nhân không có nghĩa vụ trả nợ cho công ty tài chính, trừ trường hợp có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; bảo mật thông tin khách hàng theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, hành vi nhắn tin, gọi điện chửi rủa, bôi nhọ, lăng mạ, khủng bố tinh thần nhằm mục đích đòi tiền vô căn cứ có thể cấu thành tội Cưỡng đoạt tài sản quy định tại Điều 170 Bộ luật Hình sự 2015 và mức hình phạt cao nhất của tội này là 20 năm tù.
Cần có mức trần lãi suất vay tiêu dùng
Theo Tiến sĩ Lê Bá Chí Nhân, lãi suất là vấn đề thu hút sự quan tâm của các cá nhân, tổ chức có nhu cầu vay vốn và cả nhà hoạch định chính sách. Theo quy định pháp luật hiện hành, lãi suất được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2024.
Theo đó, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác”. Quy định này đặt ra mức “trần” lãi suất trong hợp đồng vay, hạn chế tình trạng bên cho vay áp đặt một mức lãi suất quá cao cho bên vay với lợi thế nắm giữ tài sản vay.
![]() |
Tiến sĩ Lê Bá Chí Nhân |
Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2015 vẫn cho phép có ngoại lệ, vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay nếu trong trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi nhưng không xác định rõ lãi suất và khi có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định là 50%/năm mức lãi suất giới hạn quy định.
Đối với các hợp đồng tín dụng chịu sự điều chỉnh của pháp luật ngân hàng, lãi suất cho vay được quy định tại khoản 2 Điều 100 Luật Các TCTD năm 2024: “Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật về các tổ chức tín dụng”, và các quy định liên quan.
Theo đó, trường hợp khách hàng được các tổ chức tín dụng đánh giá là có tình hình tài chính minh bạch, lành mạnh thì thỏa thuận về lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam nhưng không vượt quá mức lãi suất cho vay tối đa do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định trong từng thời kỳ nhằm đáp ứng một số nhu cầu vốn.
Khác với hợp đồng vay thông thường, mức lãi suất cho vay trong hợp đồng tín dụng không ràng buộc một mức trần cố định. Quy định pháp luật đối với lãi suất có sự khác nhau giữa Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024, cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành.
Tiến sĩ Lê Bá Chí Nhân nhận định, pháp luật đề cao quyền tự do thỏa thuận trong các giao dịch dân sự nhưng không đồng nghĩa với việc “thả nổi” lãi suất của các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các công ty tài chính mà cần có sự can thiệp cần thiết để đảm bảo quyền lợi của người vay và an ninh tiền tệ.
Theo quy định tại Điều 201 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi điểm i khoản 2 Điều 2 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017, người nào cho vay với lãi suất gấp 5 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự sẽ cấu thành tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự, tức lãi suất từ 100% trở lên.
![]() |
Theo Tiến sĩ Lê Bá Chí Nhân, việc áp mức trần lãi suất trong hoạt động cho vay tiêu dùng, vay tín chấp là cần thiết. |
Ở đây đang tồn tại một “vùng xám” lãi suất, từ hơn 20%/năm đến dưới 100%/năm và các tổ chức tín dụng đang áp dụng đối với các khoản vay tiêu dùng, vay trả góp theo hình thức tín chấp, không có tài sản đảm bảo. Có thể thấy, qua khảo sát hiện nay mức lãi suất cho vay tiêu dùng, vay trả góp tại các công ty tài chính dao động từ 15% - 65%/năm, trung bình khoảng 40%/năm và nằm trong “vùng xám” này.
Cần nhìn nhận rằng, rủi ro của các công ty tài chính sẽ cao hơn khi cho vay dưới hình thức tín chấp. Tuy nhiên, việc để lãi suất tự do trong “vùng xám” nói trên mà không có một điểm khống chế có thể sẽ khiến hoạt động cho vay vô tình biến tướng, và khách hàng đi vay đa phần là người có thu nhập trung bình thấp, hiểu biết pháp luật còn hạn chế sẽ chịu mức lãi suất cao so với khả năng, dẫn tới phát sinh nhiều vấn đề không tích cực trong hoạt động thu hồi nợ.
Như vậy, để dung hòa lợi ích của cả bên vay và công ty tài chính, việc áp mức trần lãi suất trong hoạt động cho vay là cần thiết nhưng không áp dụng “trùng” với mức trần mà Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định cho các hợp đồng vay dân sự thông thường (20%/năm); Có thể dao động cao hơn để đảm bảo không gây khó khăn trong hoạt động của các công ty tài chính, đồng thời không “thả nổi” cho lãi suất trong “vùng xám” do các công ty tài chính đưa ra để bảo vệ lợi ích của người vay.


