Anti vắc xin rất nguy hiểm
Theo Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế), vắc xin đã chứng minh ý nghĩa của nó khi bảo vệ trẻ em khỏi nhiều bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Tuy nhiên, giống như thuốc, không một loại vắc xin nào dù tốt đến đâu có thể đảm bảo an toàn tuyệt đối như mong muốn, bởi vì tiêm vác xin tức là đưa một kháng nguyên lạ vào trong cơ thể.
Thông thường mỗi cá thể phản ứng với vắc xin ở các mức độ khác nhau và hầu hết chỉ có các phản ứng nhẹ như sốt, sưng đau tại chỗ tiêm và tự khỏi trong 24h, tuy nhiên một số rất ít cơ thể lại có phản ứng mạnh với văc xin như sốt cao, co giật, quấy khóc kéo dài, tím tái, thậm chí là sốc phản vệ và tử vong.
Chính vì vậy trong thực tế, nhiều trường hợp tiêm cùng một lô vắc xin, thậm chí tiêm cùng 1 lọ vắc xin lại có trẻ có phản ứng rất nghiêm trọng, trong khi tất cả các trẻ khác hoàn toàn bình thường và đó là do phản ứng cá thể cơ địa của từng người với vắc xin chứ không phải do chất lượng vắc xin.
Tuy nhiên, ngày nay mạng xã hội phổ biến là môi trường thuận lợi để tạo nên những tin đồn thất thiệt, những trào lưu phản cảm, những xuyên tạc gây hoang mang cho dư luận, gây thiệt hại nặng nề cho cá nhân, tổ chức hoặc an ninh cộng đồng.
Trào lưu an ti vắc xin cũng cần được cảnh báo, bởi rất có thể đe dọa tính mạng của gia đình, của cả cộng đồng.
Vắc xin đã cứu trẻ em như thế nào?
Bộ Y tế khẳng định, nhờ sử dụng vắc xin dự phòng, nhiều bệnh truyền nhiễm đã được thanh toán, loại trừ hoặc giảm đáng kể số mắc, số chết. Thành quả của vắc xin không chỉ được Việt Nam mà cả thể giới công nhận.
Như với bệnh đậu mùa, trước khi sử dụng vắc xin, bệnh đậu mùa đã gây tử vong khoảng 2 triệu người mỗi năm, tuy nhiên sau một chiến dịch tiêm chủng toàn cầu bệnh đã được thanh toán vào năm 1979.
Nhờ vắc xin, 2/3 số nước đang phát triển đã loại trừ được bệnh Uốn ván sơ sinh, số ca mắc Bại liệt giảm từ trên 300.000 trường hợp/năm giai đoạn những năm 1980 xuống chỉ còn 2.000 trường hợp năm 200; số trường hợp tử vong do Sởi giảm từ 6 triệu trường hợp/năm xuống còn dưới 1 triệu trường hợp/năm, số mắc Ho gà giảm từ 3 triệu trường hợp/năm xuống chỉ còn dưới 250.000 trường hợp.
Không chỉ cứu tính mạng trẻ em, vắc xin còn tiết kiệm được hàng trăm triệu đô la mỗi năm cho những chi phí chăm sóc y tế trực tiếp.
Dù mang lại nhiều thành quả, nhưng việc tiêm chủng cũng gây nhiều tranh cãi và trên thế giới đã từng có những thời kỳ tỷ lệ tiêm chủng giảm.
Như tại Vương quốc Anh, tỷ lệ tiêm chủng giảm mạnh những năm 1970 do những lo ngại của người dân về phản ứng sau tiêm chủng liên quan đến vắc xin Ho gà. Khi tỷ lệ tiêm chủng giảm còn 30%, số mắc Ho gà tăng vọt từ 2.000 -8.000 ca mỗi năm lên 100.000 ca, nhiều trường hợp tử vong và nhập viện. Sau 2 vụ dịch lớn và các chiến dịch truyền thông về nguy cơ và lợi ích của tiêm chủng, người dân đã dần tin tưởng vào công tác tiêm chủng tỷ lệ tiêm chủng sau đó đã tăng tới 95% vào giữa thập kỷ.
Tại Việt Nam, nhờ có tiêm chủng đã thanh toán Bại liệt vào năm 2000, đạt mục tiêu loại trừ Uốn ván sơ sinh vào năm 2005, tỷ lệ mắc các bệnh thuộc tiêm chủng trên 100.000 dân nếu so sánh năm 2010 với năm 1984 thấy: Bệnh Bạch hầu giảm 585 lần, Ho gà giảm 937 lần, Uốn ván sơ sinh giảm 59 lần, Sởi giảm 573 lần.
Tuy nhiên, dịch bệnh vẫn luôn tiềm ẩn, như nguy cơ vi rút Bại liệt xâm nhập từ các nước lưu hành Bại liệt; uốn ván sơ sinh là bệnh có tỷ lệ tử vong cao nhất trong các bệnh có vắc xin phòng được triển khai trong TCMR và Uốn ván sơ sinh vẫn là bệnh có tỷ lệ chết/mắc cao nhất (53-82%). Do vậy việc tiêm chủng phòng bệnh là hết sức quan trọng trong việc duy trì các thành quả mà Việt Nam đã đạt được, không để nguy cơ dịch bệnh bùng phát tại một cộng đồng nhỏ sẽ trở thành một sự kiện y tế công cộng của Việt Nam.
Nếu không duy trì tỷ lệ tiêm chủng chắc chắn là dịch bệnh sẽ bùng phát và tất cả cộng đồng sẽ gánh chịu hậu quả. Chính vì vậy Luật Phòng chống bệnh truyền nhiễm đã quy định tiêm chủng mở rộng và tiêm chủng chống dịch là tiêm chủng bắt buộc. Vì thế, các bậc phụ huynh hãy là những người thông thái, đưa trẻ đi tiêm chủng đầy đủ, đúng lịch để bảo vệ cho từng cá thể và cho cộng đồng.
Theo Dân Trí