Trong kỷ Ediacara (cách đây khoảng 635 - 542 triệu năm) sự sống chỉ tồn tại ở các đại dương. Các sinh vật sống đơn bào và khuẩn lạc đa bào đơn giản là những cư dân đông đảo của đại dương cổ đại. Không ai biết đến sự hiện diện của những sinh vật sống đa bào phức tạp hơn cho đến khi những vết tích hoá thạch của Dickinsonia được tìm thấy.
Dickinsonia Costata là một trong những loài nhỏ nhất của giống Dickinsonia với số lượng đốt thân dọc theo chiều dài cơ thể thấp nhất. Chiều dài cá thể nhỏ nhất đo được không đến 4 mm. Chúng sống trên đáy biển nông, cơ thể mềm, không có giáp xương (kiểu như sứa). Chúng có thể di động linh hoạt, không thuộc loại động vật bám đáy. Các nhà nghiên cứu đều nhận định rằng chúng là động vật đa bào có cấu trúc đã khá phức tạp dù cấu tạo cơ quan bên trong còn đơn giản. Điều đáng kinh ngạc là trải qua khoảng thời gian dài tới hơn 500 triệu năm những con vật có cơ thể mềm nhũn đó lại có thể để lại nhiều dấu vết hoá thạch đến vậy.
Hoác thạch Dickinsonia có niên đại từ 635 - 540 triệu năm trước, tìm thấy tại Estonia, hiện đang nằm trong bộ sưu tập của Bảo tàng Hóa thạch Hà Nội. |
Hoá thạch của sinh vật Ediacara được phát hiện lần đầu tiên sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Nhà địa chất học Reginald Sprigg trong khi tìm kiếm Uranium trên dãy Flinders cách bang Adelaide của Australia khoảng 500 dặm về phía Bắc đã vô tình chú ý đến một vài chỗ gợn và lõm trên đá. Sau khi quan sát và thử nghiệm ông đã phát hiện ra đó chính là dấu vết của những sinh vật thân mềm kỳ lạ và viên đá đó có niên đại từ thời tiền sử.
Trong hệ thống phân loại hiện nay, Dickinsonia được xếp vào động vật ngành Tiền thân đốt đã tuyệt chủng. Hóa thạch của chúng đã được phát hiện ở Australia, Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, Ukraine, Estonia.