Sự kiện được xem như cột mốc quan trọng, đánh dấu chặng đường kết thúc Dự án “Chỉnh lý, nghiên cứu, đánh giá giá trị và lập hồ sơ khoa học khu di tích Hoàng thành Thăng Long”, một dự án kéo dài suốt 15 năm, mang tính kiên định và đầy thử thách, nhằm giải mã những tầng văn hóa sâu thẳm của kinh đô Thăng Long.
Từ phát hiện khảo cổ đến dự án khoa học mang tầm quốc gia
Phát hiện khảo cổ tại khu 18 Hoàng Diệu giai đoạn 2002–2009 được coi là khởi đầu cho bước ngoặt nhận thức lịch sử. Hàng triệu di vật, cấu kiện kiến trúc và dấu tích nền móng cung điện được phát hiện đã giúp giới khoa học lần đầu tiên phác dựng diện mạo một kinh đô phồn thịnh bậc nhất châu Á thời trung đại, nơi hội tụ tinh hoa của nhiều triều đại Lý, Trần, Lê sơ, Mạc và Lê Trung hưng. Chính phát hiện ấy đã trở thành cơ sở khoa học vững chắc để UNESCO ghi danh Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long là Di sản Văn hóa Thế giới vào năm 2010.
Từ dấu mốc này, Chính phủ giao cho Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam triển khai dự án nghiên cứu quy mô lớn do Viện Nghiên cứu Kinh thành chủ trì. Nhiệm vụ không chỉ là chỉnh lý, lập hồ sơ khoa học mà còn đặt nền tảng cho công tác phục dựng, bảo tồn và phát huy giá trị di sản trong tương lai.
Theo PGS.TS Bùi Minh Trí, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh thành, đây là “một hành trình khoa học chưa từng có tiền lệ”, đòi hỏi sự dấn thân trí tuệ và tâm huyết của nhiều thế hệ nhà nghiên cứu, đồng thời thể hiện cam kết quốc gia trong việc gìn giữ ký ức kinh đô nghìn năm.
Phát biểu tại hội thảo, PGS.TS Bùi Minh Trí khẳng định: “Trong suốt 15 năm qua, dự án đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề cốt lõi về lịch sử và quy mô của Hoàng thành Thăng Long – một trung tâm quyền lực chính trị, hành chính, quân sự và văn hóa xuyên suốt hơn một thiên niên kỷ. Từ những dữ liệu khảo cổ, chúng ta có thể khẳng định Thăng Long là một đô thị phát triển liên tục qua các thời kỳ”.
Cũng theo ông, Dự án 15 năm này không chỉ đơn thuần là một công trình nghiên cứu khoa học, mà còn mang “sứ mệnh kép”: vừa hệ thống hóa toàn bộ nguồn tư liệu khảo cổ học, địa tầng, kiến trúc, di vật, vừa xây dựng khung tri thức khoa học phục vụ cho công cuộc bảo tồn và phục hồi các công trình cung điện trong tương lai.
“Hoàng thành Thăng Long không chỉ là di sản của quá khứ, mà còn là nguồn dữ liệu để chúng ta hiểu rõ hơn về căn cốt văn hóa Việt Nam và phương thức tổ chức quốc gia từ thời trung đại,” ông Trí nhấn mạnh.
PGS.TS Bùi Minh Trí cũng nhìn nhận, điều quan trọng nhất mà dự án đạt được sau 15 năm không chỉ nằm ở những phát hiện vật chất, mà là sự hình thành của một hệ thống tri thức khoa học chuẩn mực về kinh đô Thăng Long. Hàng trăm nghìn hiện vật đã được phân loại, số hóa, lập bản đồ phân bố và công bố quốc tế... Đây là thành quả của tầm nhìn chiến lược, của một dự án khoa học mang ý nghĩa quốc gia dể giải mã một khía cạnh quan trọng về lịch sử dân tộc.
![]() |
PGS.TS Bùi Minh Trí công bố số lượng hiện vật đã được lập hồ sơ khoa học |
Phát hiện khảo cổ tại khu 18 Hoàng Diệu từ năm 2002–2009 đã mở ra một chương mới trong nhận thức lịch sử. Hàng triệu di vật và quần thể kiến trúc cung điện được phát hiện đã giúp tái hiện diện mạo của một kinh đô phồn thịnh bậc nhất châu Á thời trung đại, nơi chứng kiến sự kế thừa qua nhiều triều đại Lý, Trần, Lê sơ, Mạc, Lê Trung hưng. Những chứng cứ ấy là nền tảng quan trọng để UNESCO ghi danh Hoàng thành Thăng Long là Di sản Văn hóa Thế giới vào năm 2010.
Từ dấu mốc đó, Chính phủ giao cho Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam triển khai dự án nghiên cứu quy mô lớn, do Viện Nghiên cứu Kinh thành chủ trì. Nhiệm vụ không chỉ là chỉnh lý, lập hồ sơ khoa học, mà còn nhằm kiến tạo nền tảng tri thức để phục dựng, bảo tồn và phát huy giá trị di sản trong tương lai. Như PGS.TS. **Bùi Minh Trí**, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh thành, phát biểu tại hội thảo, “đây là một hành trình khoa học chưa từng có tiền lệ, đòi hỏi sự đầu tư lớn về trí tuệ, kinh phí, thời gian và trách nhiệm đối với lịch sử dân tộc.”
Giải mã đời sống văn hóa - xã hội Thăng Long
Nếu những phát hiện khảo cổ học cách đây hơn hai thập kỷ đã mang lại cái nhìn về cấu trúc đô thị, không gian cung điện và tầng văn hóa vật chất của Hoàng thành Thăng Long, thì những công trình nghiên cứu kế tiếp đã mở rộng phạm vi nhận thức sang bình diện lịch sử – xã hội. Từ đó, diện mạo kinh đô Thăng Long hiện lên không chỉ như trung tâm quyền lực mà còn là một thực thể kinh tế – văn hóa năng động, có khả năng tương tác và thích ứng mạnh mẽ với bối cảnh khu vực.
GS.TS Nguyễn Văn Kim, Phó Chủ tịch Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia, nhận định: "Có thể khẳng định vị thế đặc biệt, tầm mức ảnh hưởng rộng lớn của kinh đô Thăng Long và quốc gia Đại Việt trong các mối quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa với các quốc gia trong khu vực. Khảo cứu hoạt động kinh tế sản xuất của kinh đô Thăng Long có thể hướng đến những nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn về vai trò, tính chất của kinh đô".
Khác với quan niệm của một số học giả cho rằng sự phát triển của nhiều thể chế chính trị Đông Á là sự mô phỏng hay hình ảnh thu nhỏ của các mô thức khu vực, sự phát triển của kinh đô Thăng Long luôn cho thấy khả năng thích ứng và năng lực sáng tạo riêng biệt. Nhìn tổng thể, Thăng Long có thể được coi là một đô thị đa chức năng, nơi việc điều hành hệ kinh tế nông nghiệp gắn liền với các hoạt động thủ công nghiệp, trao đổi hàng hóa và giao thương trong nước, quốc tế – tất cả cùng tạo nên động lực phát triển.
![]() |
Theo GS.TS Nguyễn Văn Kim, khi đặt đô thị Thăng Long trong so sánh đối chiếu với các trung tâm cùng thời ở khu vực Đông Bắc Á như Bắc Kinh (Trung Quốc), Seoul (Hàn Quốc), Nara, Kyoto (Nhật Bản) hay Đông Nam Á như Angkor (Campuchia), Yangon (Myanmar), Manila (Philippines), Ayutthaya (Thái Lan), Sunda Kelapa – Jakarta (Indonesia), có thể nhận diện rõ những điểm tương đồng và dị biệt. Chính sự khác biệt ấy đặt ra yêu cầu các nhà nghiên cứu cần hợp tác sâu hơn, không chỉ để làm rõ quy mô, cấu trúc, hình thái kiến trúc của Hoàng thành Thăng Long và các đô thị cổ, mà còn để truy nguyên những nhân tố nội sinh và ngoại sinh đã hình thành nên dáng vóc, sự trường tồn của các kinh đô và kho tàng di sản văn hóa mà chúng để lại.
Nghiên cứu, phục dựng và hồi sinh di sản
Hội thảo quốc tế lần này không chỉ tổng kết chặng đường 15 năm nghiên cứu mà còn đặt ra những câu hỏi chiến lược cho giai đoạn tới. Làm thế nào để những giá trị thu được không chỉ nằm trong các báo cáo khoa học mà có thể bước ra đời sống xã hội, trở thành nguồn lực phát triển văn hóa – kinh tế?
Theo TS. Đinh Thế Anh, Trường Khoa học liên ngành và Nghệ thuật, Đại học Quốc gia Hà Nội: "Hoàng thành Thăng Long có lịch sử hơn một thiên niên kỷ, là một trong những đô thị có quá trình đô thị hóa lâu đời bậc nhất Việt Nam. Dù chúng ta còn có nhiều đô thị cổ và trung tâm được hình thành ở các giai đoạn, nhưng xét về mức độ tích lũy yếu tố đô thị, tính ổn định định cư và vai trò trung tâm chính trị – văn hóa, giá trị của Hoàng thành Thăng Long vẫn là di tích nổi bật nhất".
Vì thế, nghiên cứu về Hoàng thành Thăng Long không chỉ đơn thuần là tìm hiểu một di sản, một địa điểm được bảo tồn, hay một phạm trù chuyên biệt của giới kiến trúc, bảo tồn hay quy hoạch. Đây là nhiệm vụ mang ý nghĩa lớn lao để nhận thức lại lịch sử dân tộc, lịch sử quốc gia, nhìn về những lớp văn hóa đã lắng đọng qua nhiều thế kỷ.
![]() |
Hội thảo khoa học quốc tế “Khu di tích Hoàng thành Thăng Long – Thành tựu và vấn đề đặt ra sau 15 năm nghiên cứu (2011–2025)” |
Hội thảo lần này là một điểm nhấn quan trọng trong hành trình 15 năm của Viện Nghiên cứu Kinh thành. Sự kiện không chỉ tổng kết mà còn mở ra hướng tiếp cận mới cho các chương trình nghiên cứu liên ngành, liên vùng và cả liên quốc gia.
Sự tham gia của các học giả quốc tế cho thấy những hướng nghiên cứu so sánh đang mở rộng: từ mạng lưới phân bố đồ gốm, tuyến thương mại, hình thái đô thị cho tới kỹ thuật và vật liệu kiến trúc. Tất cả đều góp phần làm sáng rõ một lịch sử huy hoàng của Việt Nam, trong đó Hoàng thành Thăng Long là cột mốc rực rỡ trên bản đồ chính trị, kinh tế và văn hóa khu vực châu Á.
Ông Thế Anh nhấn mạnh: "Việc phục dựng một phần Kinh thành Thăng Long hay một số công trình trọng điểm như điện Kính Thiên là dự án có ý nghĩa lớn. Tuy nhiên, cần phân biệt rõ giữa công việc nghiên cứu và công việc phục dựng".
Bởi nghiên cứu là quá trình tích lũy lâu dài dựa trên các phát hiện khảo cổ, trên những phân tích so sánh quốc tế và trên sự kế thừa tri thức của nhiều thế hệ học giả. Chỉ khi ấy, ta mới có thể dần nhận diện được hình thái lịch sử, bố cục không gian, cấu trúc đô thị của Kinh thành xưa – không chỉ là khu vực hoàng cung mà còn cả khu dân cư, vùng phụ cận.
Theo đó, cung điện Đại Đô ở Bắc Kinh là kết quả của chương trình nghiên cứu kéo dài 60–70 năm. Ở Nhật Bản, dù đã phục dựng nhiều cung điện, các nghiên cứu về kinh đô cổ vẫn chưa dừng lại. Một dự án phục dựng là cần thiết vì nó mang lại hình dung cụ thể, gần gũi hơn cho công chúng, giúp lan tỏa tri thức khoa học vào thực tiễn đời sống. Song song với đó, công việc nghiên cứu vẫn phải tiếp tục, vì tri thức lịch sử luôn là quá trình mở, không ngừng hoàn thiện.
TS. Đinh Thế Anh cũng lưu ý, điều cần tránh trong nhận thức về dự án phục dựng một bộ phận kiến trúc Hoàng thành Thăng Long là coi kết quả phục dựng như một chân lý tuyệt đối, hay như sản phẩm riêng của một cá nhân hay nhóm nghiên cứu.
"Công việc nghiên cứu thuộc về toàn xã hội, là trách nhiệm chung của nhiều thế hệ. Nó chấp nhận sai lầm của người đi trước và mở đường cho sự hiệu chỉnh, bổ sung của người đi sau. Giá trị của nghiên cứu không chỉ nằm ở việc phục dựng có đúng hay không, mà quan trọng hơn, là qua đó ta hiểu sâu sắc hơn về văn hóa, chính trị, và trình độ khoa học kỹ thuật của dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử", ông Thế Anh nói.


