Từ giảng đường đến chiến hào
Họa sĩ Lê Duy Ứng sinh ra và lớn lên tại vùng đất Quảng Bình, nơi hứng chịu những trận bom dữ dội suốt nhiều năm chiến tranh. Nhắc về quyết định xếp bút nghiên nhập ngũ năm 1971, ông không nói nhiều về lý tưởng lớn lao, mà nhắc đến những ký ức không thể nào quên của một làng quê bị cày xới đến tận cùng.
“Gia đình tôi bị giặc đánh phá, sập lên sập xuống bảy lần”, ông kể chậm rãi. Nhưng ám ảnh nhất là buổi trưa người chú ruột đang ngồi ăn cơm thì một quả bom rơi trúng giữa mâm. Mười hai người trong gia đình cùng một người khách chết ngay tại chỗ. “Chúng tôi chỉ nhặt được một nong thịt, phải chia ra mười ba cái tiểu để chôn. Trời đánh còn tránh miếng ăn, nhưng giặc Mỹ thì không”.
Không lâu sau đó, bom Mỹ lại trút xuống làng, thiêu rụi nhiều ngôi nhà, trong đó có nhà cậu ruột ông. Năm người trong gia đình thiệt mạng, cả làng mất sáu mươi người. Đến nay, làng ông vẫn có một ngày giỗ chung cho những nạn nhân ấy. Một người bác ruột khác cũng chết vì sức ép bom B52 trong hầm kèo. “Quê hương tôi lúc ấy vô cùng đau thương, tang tóc. Nợ nước, thù nhà đối với tôi là ngút trời”. ông nói. Vì thế, khi đang là sinh viên năm thứ ba Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam, nghe lời kêu gọi của Chủ tịch Tôn Đức Thắng vận động thế hệ trẻ xếp bút nghiên lên đường đánh giặc, họa sĩ Lê Duy Ứng đã tình nguyện viết đơn nhập ngũ.
Vào quân đội, Lê Duy Ứng là lính trinh sát Trung đoàn 101, Sư đoàn 325. Công việc trinh sát buộc ông phải trườn bò, luồn sâu, đối mặt trực tiếp với bom đạn. Nhưng ngay giữa chiến trường, ông vẫn vẽ. “Ở Quảng Trị năm 1972, tôi tham gia trọn vẹn 81 ngày đêm mùa hè đỏ lửa”. ông nhớ lại. “Những ngày đó ác liệt đến mức hầm ngập nước đến thắt lưng, người chết không đưa ra được” .Trong hoàn cảnh ấy, ký họa không còn là sáng tác nghệ thuật theo nghĩa thông thường. Đó là cách để ghi lại sự tồn tại của con người giữa sự hủy diệt. Hơn 100 bức ký họa được ông vẽ trong những ngày ở Thành cổ Quảng Trị. “Có những lúc cầm nắm cơm ăn, trên tay còn dính cả máu của đồng đội. Nó ác liệt đến mức như vậy”. ông nói.
![]() |
Họa sĩ Lê Duy Ứng (Thứ 3 từ phải sang) trong lần kể chuyện lịch sử tại THCS Đức Giang (Hoài Đức). Ảnh: Chu Linh |
Chính trong những ngày tháng ấy, ông được phong quân hàm vượt cấp từ hạ sĩ lên chuẩn úy, được khen thưởng và kết nạp Đảng ngay trên chiến hào bảo vệ Thành cổ Quảng Trị ngày 23/8/1972. Sau này, nhà văn Chu Lai đã lấy hình ảnh ông làm nguyên mẫu cho nhân vật họa sĩ Bình trong tiểu thuyết Mưa đỏ.
![]() |
Bức vẽ Bác Hồ bằng máu trong lần bị thương khi Chiến dịch mùa Xuân năm 1975. Ảnh: NVCC |
Đến Chiến dịch mùa Xuân 1975, trong một trận đánh ác liệt tại căn cứ Nước Trong, ông bị thương nặng, hỏng hoàn toàn đôi mắt. Trong khoảnh khắc tỉnh táo cuối cùng, ông chấm máu từ hốc mắt vẽ chân dung Bác Hồ, cờ Tổ quốc, cờ Đảng và ghi dòng chữ: “ÁNH SÁNG - NIỀM TIN/ Con nguyện dâng Người tuổi thanh xuân”. Đó là bức vẽ cuối cùng bằng mắt và cũng là khởi đầu cho một hành trình nghệ thuật chưa từng có tiền lệ.
Khi xúc giác trở thành bản vẽ
Sau ngày mất đôi mắt, họa sĩ Lê Duy Ứng rơi vào một cuộc khủng hoảng không chỉ về tinh thần mà còn về nghề nghiệp. Với một họa sĩ được đào tạo bài bản, thị giác không đơn thuần là công cụ quan sát, mà là nền tảng của toàn bộ tư duy tạo hình. Mọi khái niệm về hình, khối, tỷ lệ, không gian giờ đây bỗng dưng bị đặt vào trạng thái vô hiệu.
Bước ngoặt đến khi ông quyết định chuyển từ hội họa sang điêu khắc. Điêu khắc cho phép ông tiếp cận hình khối bằng xúc giác. Những ngày đầu, ông tập nặn đất trong bóng tối hoàn toàn, không phác thảo, không dựng hình bằng mắt, buộc phải xây dựng lại toàn bộ hình ảnh trong não bộ thông qua ký ức giải phẫu, cấu trúc hình học và những bài học hàn lâm tích lũy từ thời sinh viên Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam.
![]() |
Họa sĩ Lê Duy Ứng (ở giữa) và bức tranh được vẽ tại Buổi kể chuyện lịch sử tại THCS Đức Giang. Ảnh: Chu Linh |
Trong sáng tác chân dung, ông không làm việc theo trực giác thuần túy. Ông đo, ngón tay, đốt tay, gang tay trở thành những đơn vị đo lường cố định. Khoảng cách giữa hai mắt, độ rộng xương gò má, chiều dài sống mũi, tỷ lệ trán cằm đều được xác định theo những chuẩn mực đã được ông ghi nhớ như một bảng dữ liệu nằm sẵn trong trí nhớ. Ông luôn bắt đầu bằng việc dựng trục chính của khuôn mặt, rồi mới triển khai từng khối phụ, tương tự quy trình dựng hình của một họa sĩ sáng mắt.
Khi đôi tay lướt trên bề mặt đất hoặc gỗ, ông liên tục đối chiếu cảm giác xúc giác với hình ảnh cấu trúc đã “vẽ” sẵn trong đầu. Chính sự đối chiếu có kỷ luật giữa tay và não bộ này giúp tác phẩm của ông tránh được trạng thái ngẫu hứng hoặc méo lệch hình khối. Với điêu khắc chân dung, sự giống chỉ là điều kiện cần. Thách thức nằm ở nhịp chuyển khối nơi hình khối vận động mềm mại trên bề mặt tác phẩm. Để kiểm soát điều đó, ông sử dụng đồng thời cả lòng bàn tay và đầu ngón tay: lòng bàn tay cảm nhận tổng thể khối lớn, đầu ngón tay dò từng vùng chuyển tiếp nhỏ. Mỗi lần chạm là một lần “đọc” hình khối, nơi xúc giác đảm nhiệm vai trò mà thị giác từng nắm giữ. “Mình sờ xong, cảm nhận được những cái đường nét, những cái mát lành của gỗ, và cái ấm cúng của những hình ảnh mà mình làm ra,” ông nói. Với ông, mỗi tác phẩm là một cấu trúc vừa vật chất vừa tinh thần, nơi xúc giác, ký ức và cảm xúc gặp nhau trong một hệ cảm nhận thống nhất.
Vượt khỏi danh xưng “Người họa sĩ mù”
Nhìn từ góc độ mỹ thuật thuần túy, tác phẩm của họa sĩ Lê Duy Ứng có bố cục chặt chẽ, tỷ lệ vững, hình khối mạch lạc và đặc biệt là “cái thần” được tiết chế, không bi lụy. Đó là dấu hiệu của một nghệ sĩ được đào tạo bài bản và lao động nghiêm túc, chứ không phải sản phẩm của nghị lực đơn thuần. Không chỉ được ghi nhận bằng chất lượng tác phẩm, con đường nghệ thuật của ông còn được khẳng định bằng một hành trình lao động bền bỉ hiếm có. Ông đã có 45 cuộc triển lãm cá nhân và nhóm trải dài khắp ba miền đất nước và ở nước ngoài, giành 9 giải thưởng trong nước và quốc tế. Tên tuổi ông được đưa vào sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 4, tập 1 với bài “Người chiến sĩ giàu nghị lực”, một sự ghi nhận của xã hội đối với đóng góp đặc biệt của ông cho nghệ thuật và đời sống tinh thần.
Ông cũng được xác lập kỷ lục là “Người vẽ tranh, nặn tượng nhiều nhất Việt Nam”, điều mà theo ông, “là một vinh dự lớn trong đời làm nghề”. Tháng 10/2013, họa sĩ Lê Duy Ứng được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Nhưng phía sau những danh hiệu ấy không phải là sự ưu ái dành cho hoàn cảnh mà là sự thừa nhận dành cho một nghệ sĩ đã lao động nghiêm túc, bền bỉ và đạt đến trình độ nghề nghiệp đáng kính, vượt xa mọi giới hạn của bản thân.


