216 lần “Khóc cười trước vành móng ngựa”
Khoảng 20 năm trước, tác phẩm ký sự pháp đình “Khóc cười trước vành móng ngựa” của nhà văn Nguyễn Khoa Đăng được NXB Trẻ ấn hành, ghi dấu lại những tháng ngày ông làm thầy cãi cho nông dân. Khác với những bài ký sự cùng thể loại, “Khóc cười trước vành móng ngựa” không phải được viết bởi các nhà báo theo dõi pháp đình. Nhà văn Nguyễn Khoa Đăng khi đó đang làm Phó Chủ tịch Hội LHVNNT Kiên Giang, được tỉnh này cử tham gia vào đoàn bào chữa nhân dân gồm 10 thành viên, sau tăng lên 20 người theo quyết định của Chủ tịch tỉnh Nguyễn Tấn Dũng lúc đó ký ngày 18/10/1990. Việc tham gia đoàn bào chữa chẳng có gì đáng nói nếu ông không phải là nhà văn. Chính vì mang thân phận nhà văn nên ông đã tìm được sự cảm thông với nhiều mảnh đời lầm lỡ. Trong số các vị bào chữa viên nhân dân lúc đó, Nguyễn Khoa Đăng đã cãi nhiều nhất suốt 47 tháng ròng với 216 lần ra tòa.
Nguyễn Khoa Đăng khi làm thầy cãi |
“Khóc cười trước vành móng ngựa” không phải là tác phẩm được nhiều người biết đến của Nguyễn Khoa Đăng. Nhắc đến tên ông, nhiều người biết đến danh phận nhà thơ viết cho thiếu nhi với bài “Em đi giữa biển vàng” được nhạc sĩ Bùi Đình Thảo phổ nhạc ở miền Bắc thời chiến tranh. Năm 2000, Trung ương Đoàn tổ chức bình chọn “Em đi giữa biển vàng” là 1 trong 50 bài hát thiếu nhi hay nhất thế kỷ 20. Nhưng “Khóc cười trước vành móng ngựa” vẫn là một tác phẩm đặc biệt. Đặc biệt không phải ở nội dung của tác phẩm mà đặc biệt ở hành động sống của nhà văn để cấu thành tác phẩm đó.
Lâu nay chúng ta hay nói nhà văn phải đi thực tế sáng tác, thâm nhập đời sống… thì Nguyễn Khoa Đăng viết “Khóc cười trước vành móng ngựa” chẳng những đi, thâm nhập mà là đã sống trong vui buồn của những phận người trước nghịch cảnh éo le “vô phúc đáo tụng đình”. Đặc biệt hơn, ông làm “thầy cãi” một cách vô tư, vô vụ lợi, trong sáng nhất có thể hiểu ở những từ này, cho những người nghèo, kém hiểu biết pháp luật. Phía sau một tác phẩm không hẳn được nhiều người biết vẫn còn đó những hành động đẹp, mà trước hết phải sống rồi mới nói đến chuyện viết. Theo Nguyễn Khoa Đăng, bây giờ không thiếu luật sư nhưng rất thiếu những người thực sự cãi cho sự kém hiểu biết của phần đông dân chúng thấp cổ bé họng.
Được tử tù viết thư bằng máu cảm ơn
Trong quá trình đi làm “thầy cãi”, nhà văn Nguyễn Khoa Đăng đã thu thập được rất nhiều câu chuyện liên quan đến từng hoàn cảnh con người để sau này trở thành nhân vật trong tác phẩm của ông. Ông tâm sự: “Có những cuộc đời nhiều ngã rẽ và trắc trở đến độ dù có tưởng tượng giỏi đến mấy anh nhà văn cũng không thể nghĩ ra”. Chẳng những là câu chuyện liên quan đến con người, thông qua việc bào chữa cho những mảnh đời trót dại, ông nhà văn đã có thêm nhiều kiến giải về lý do họ phạm tội. Lý do phạm tội dễ thấy nhất bởi sự hiểu biết pháp luật của người dân còn quá hời hợt. Chính vì kém hiểu biết nên bản năng đã chiến thắng lý trí khiến họ lâm vào vòng lao lý. Đa phần những người nông dân được nhà văn Nguyễn Khoa Đăng biện hộ đáng thương hơn đáng giận. “Ngay cả những người làm công tác pháp luật thời đó vẫn còn rất thiếu, do thiếu nên tôi mới làm thầy cãi. Như vậy sao nỡ trách người dân kém hiểu biết rồi phạm tội”- nhà văn chia sẻ.
Nguyễn Khoa Đăng vào năm 2008 |
“Khóc cười trước vành móng ngựa” đã được nhà văn Nguyễn Khoa Đăng miêu tả như tiểu thuyết. Ông muốn dùng bút pháp tiểu thuyết để mổ xẻ chi tiết hơn những phận người chứ không đơn giản là phạm tội hay không phạm tội như luật định. Nhà văn kể: “Có một cậu trai phạm tội cưỡng đoạt một cô gái. Trước tòa tôi dùng thơ Hồ Xuân Hương để cãi: ‘Yếm đào trễ xuống dưới nương long’ khiến các vị thẩm phán bậc cười. Và cậu trai đã được giảm án từ 4 năm xuống còn 2 năm tù. Sau này tôi viết trong sách phân tích tại sao cậu trai đó lại có hành vi bản năng khi cưỡng đoạt cô gái. Thì như câu thơ Hồ Xuân Hương miêu tả, cô gái đó quá sức gợi tình trước một cậu trai đang ở tuổi mà sinh lực nam giới bùng lên như lửa cháy. Tôi đã so sánh chuyện cưỡng đoạt của cậu trai này với chuyện bị mất cắp. Nếu cô gái biết ‘bảo vệ tài sản’ của mình một cách cẩn thận thì cậu trai kia đâu ‘nổi lòng tham’ mà sinh ra cưỡng đoạt!”.
Nhà văn còn kể tiếp câu chuyện một người tử tù đã viết thư bằng máu lên vách tường nhà giam cảm ơn ông. Bức thư này nhà văn đã được những người quản giáo kể lại với vẻn vẹn mấy dòng: “Xin cảm ơn ba má và cảm ơn ông Nguyễn Khoa Đăng”. Được một người sắp chết cảm ơn cùng với cha mẹ mình quả thật khiến ông nhà văn rúng động tinh thần. Người tử tù này đã nổ súng giết chết cùng lúc 4 người, tội giết người như thế chắc chắn pháp luật không dung tha. Vụ án lúc đó nổi tiếng khắp tỉnh Kiên Giang, nhà văn Nguyễn Khoa Đăng biết mình không cách nào biện hộ gỡ bớt tội cho bị cáo. Nhưng trước tòa, thay vì bào chữa cho bị cáo giảm án thì ông nhà văn lại dành thời gian chứng minh với mọi người rằng kẻ sát nhân kia chính là một con người đã có những phút giây bị kích động. Sau phiên tòa, người tử tù đã nói với nhà văn: “Em cảm ơn luật sư. Luật sư không cãi cho em khỏi tội chết, nhưng đã giúp em nói với mọi người là bản chất em không xấu xa và tàn nhẫn”.
Khóc cười trước vành móng ngựa, tác phẩm kể về 216 lần ra tòa làm “thầy cãi” của nhà văn Nguyễn Khoa Đăng |
Dù đã không còn làm “thầy cãi” để “khóc cười trước vành móng ngựa” nhưng nhà văn Nguyễn Khoa Đăng vẫn là “thầy cãi” trong chính các tác phẩm của mình. Ông bộc trực: “Nói thật, cái anh nhà văn khác với anh luật sư ở chỗ là luôn luôn cãi dù không ra tòa. Nhiều người gọi sự “luôn luôn cãi” này như một sự phản biện cuộc sống. Chừng nào con người còn khổ đau, bất hạnh thì ngòi bút của tôi còn tiếp tục ‘cãi’ hoài!”.
Nhà văn Nguyễn Khoa Đăng (1940 – 2022) sinh ra và lớn lên ở Vũ Thư, Thái Bình. Ông tên thật là Nguyễn Đăng Khoa, nhưng khi sáng tác thì đã thấy Trần Đăng Khoa nổi danh thần đồng, nên phải lấy bút danh là Nguyễn Khoa Đăng. Đó là một sự tự trọng nghề nghiệp, mà sau này Trần Đăng Khoa thừa nhận tếu táo: "Lẽ ra không cần đổi ngược Đăng Khoa thành Khoa Đăng. Em và bác đều là Khoa. Bác là Chính Khoa, còn em là Phụ Khoa".
Sau 10 năm dạy học từ 1961 đến 1971, với bài thơ "Em đi giữa biển vàng" được nhạc sĩ Bùi Đình Thảo phổ thành ca khúc nổi tiếng, nhà văn Nguyễn Khoa Đăng sang công tác tại Hội Văn nghệ Thái Bình. Năm 1977, nhà văn Nguyễn Khoa Đăng chuyển vào công tác tại Hội Văn nghệ Kiên Giang.
Năm 1993, nhà văn Nguyễn Khoa Đăng nghỉ hưu sớm và định cư ở Sài Gòn tiếp tục cầm bút để viết hai cuốn sách quan trọng nhất đối với sự nghiệp của ông là hai tiểu thuyết về cải cách ruộng đất "Nước mắt một thời" và "Hoàng hôn lạnh".
Nhà văn Nguyễn Khoa Đăng viết được nhiều thể loại. Về truyện ngắn ông có các tập "Khói đốt đồng", "Vẽ lại chân dung cụ Tổ". Về tiểu thuyết, ông có "Ngõ tre rì rào", "Mây chiều bãng lãng". Về thiếu nhi, ông có tập thơ "Đội nón cho cây" và truyện dài "Chim mặt người". Về kịch bản phim, ông có "Giai điệu xanh", "Bài hát đâu chỉ là nốt nhạc"...
Không chỉ viết câu chuyện giáo dục "Cài hoa vào quá khứ", nhà văn Nguyễn Khoa Đăng còn theo đuổi một thể loại khá thú vị là truyện trắc nghiệm tâm lý, với hai tập "Trăm nỗi éo le" và "Cảnh ngứa mắt chốn đông người".
Đặc biệt, trong cuộc đời Nguyễn Khoa Đăng, ông có 3 năm làm thầy cãi. Từ năm 1989 đến 1992, do chưa có luật sư, nên tỉnh Kiên Giang phải thành lập Đoàn bào chữa viên. Nhà văn Nguyễn Khoa Đăng là một trong 20 thành viên của Đoàn bào chữa viên tỉnh Kiên Giang, và ông là người được tín nhiệm ra tòa nhiều nhất. Tổng cộng, nhà văn Nguyễn Khoa Đăng có 216 lần đại diện bào chữa cho những người nghèo, những người thân cô thế cô.
Những trải nghiệm từ năm tháng làm bào chữa viên, giúp nhà văn Nguyễn Khoa Đăng có tập tạp bút "Khóc cười trước vành móng ngựa" và tiểu thuyết "Bị cáo ở hồ uyên ương".
Bây giờ, nhà văn Nguyễn Khoa Đăng đã kết thúc cuộc đăng khoa kiếp người. Linh hồn ông được bay về cánh đồng tuổi thơ, nơi sự trong trẻo của ông từng hát lên: "Em đi giữa biển vàng, nghe mênh mang trên đồng lúa hát. Hương lúa chín thoang thoảng bay, làm lung lay hàng cột điện, làm xao động cả hàng cây"
Theo Lê Thiếu Nhơn, nhà nghiên cứu phê bình văn học