Số vốn đăng ký cho lĩnh vực chế tạo tăng mạnh
Theo báo cáo của WB, sau khi tăng mạnh vào tháng Mười, tổng số đăng ký vốn FDI giảm còn 2,7 tỷ USD trong tháng 11, giảm 27,9% (so tháng trước) và 1,9% (so cùng kỳ năm trước). Mặc dù giảm, nhưng số vốn đăng ký cho lĩnh vực chế tạo chế biến lại tăng mạnh, tăng 158% (so tháng trước) và 50% (so cùng kỳ năm trước).
Trong 11 tháng qua, tổng số đăng ký vốn FDI đạt 25,1 tỷ USD, giảm 5% so với cùng kỳ năm trước. Số giải ngân vốn FDI vẫn mạnh, tăng 14,4% trong tháng 11 (so cùng kỳ) và 15,1% trong 11 tháng.
Báo cáo của WB cũng đánh giá, chỉ số sản xuất công nghiệp chỉ tăng 5,3% trong tháng 11 (so cùng kỳ) so với 6,3% trong tháng Mười (so cùng kỳ), là mức tăng thấp nhất kể từ tháng 2/2022. Tăng trưởng giảm đà phần nào do hiệu ứng xuất phát điểm cao. Thực chất, chỉ số sản xuất công nghiệp phục hồi từ mức -1,8% trong tháng 10/2021 (so cùng kỳ) lên 8,2% trong tháng 11/2021 (so cùng kỳ) khi Việt Nam mở cửa lại sau một giai đoạn giãn cách COVID-19 kéo dài. Ngoài ra, sức cầu bên ngoài yếu đi cũng là một yếu tố đóng góp quan trọng nữa, khi nhu cầu của các thị trường xuất khẩu chủ lực đã và đang suy giảm.
Tăng trưởng doanh số bán lẻ cũng giảm từ 20,7% trong tháng 10 (so cùng kỳ) xuống 17,5% trong tháng 11 (so cùng kỳ), tốc độ tăng giảm liên tục trong ba tháng qua. Mặt khác, lý do giảm phần nào do hiệu ứng xuất phát điểm thấp liên quan đến giãn cách COVID-19 trong quý 3/2021 đang yếu dần. Bên cạnh đó, tốc độ phục hồi tiêu dùng trong ba quý đầu năm có vẻ cũng đang giảm xuống.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. (Tỷ USD, không điều chỉnh theo mùa vụ) |
Tuy nhiên, tốc độ tăng doanh số bán lẻ hàng hóa tăng 10,7% so với khoảng 12% thời kỳ trước đại dịch (so cùng kỳ). Doanh số dịch vụ ăn uống và lưu trú
tăng 5,3% trong tháng 11/2022 so với trước đại dịch nhưng doanh số dịch vụ lữ hành vẫn thấp hơn 37% so với tháng 11/2019.
Đặc biệt, lạm phát tính theo chỉ số giá tiêu dùng (CPI) nhích nhẹ từ 4,3% trong tháng 10 lên 4,4% trong tháng 11. Lạm phát cơ bản, nghĩa là không gồm giá lương thực, thực phẩm, năng lượng và các mặt hàng có giá do Nhà nước quản lý (y tế và giáo dục), tiếp tục tăng từ 4,5% trong tháng 10 lên 4,8% trong tháng 11, đạt kỷ lục mới.
Linh hoạt tỷ giá
Theo WB, VND của Việt Nam tăng giá nhẹ trong tháng 11 (0,8%) so với mức giảm giá cộng dồn 9,1% kể từ cuối năm 2021. VND tăng giá chủ yếu do đồng USD yếu đi trên thị trường quốc tế. Thực chất, tất cả các đồng tiền lớn và đồng tiền của các quốc gia láng giềng của Việt Nam đều giảm so với đồng USD trong tháng 11/2022. Việc Ngân hàng Nhà nước nâng các mức lãi suất chính sách chính thêm 200 điểm cơ bản trong tháng Chín và tháng Mười cũng góp phần nới nhẹ áp lực đối với đồng nội tệ.
Tốc độ mất giá đồng tiền so với USD. (Tỷ lệ %) |
Chuyên gia WB đánh giá, cả hai động lực tăng trưởng là xuất khẩu và nhu cầu trong nước đều đang chững lại. Nhu cầu bên ngoài yếu đi gây ảnh hưởng đến xuất khẩu. Tiêu dùng hậu COVID-19 dường như cũng phục hồi chậm lại. Điều kiện huy động tài chính bị thắt chặt hơn và lạm phát gia tăng có thể ảnh hưởng đến nhu cầu trong nước trong thời gian tới.
Do điều kiện huy động tài chính trên toàn cầu bị thắt chặt và nhu cầu bên ngoài yếu đi, chuyên gia WB khuyến cáo cơ quan quản lý tiền tệ của Việt Nam có thể cân nhắc cho phép tỷ giá được linh hoạt hơn nữa nhằm ứng phó với những cú sốc bên ngoài.
Chính sách này có thể được bổ sung bằng cách sử dụng sáng suốt lãi suất tham chiếu và sử dụng thận trọng can thiệp tỷ giá trực tiếp nhằm bảo vệ được dự trữ ngoại hối. Phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ là điều kiện quan trọng để duy trì ổn định giá cả trong bối cảnh lạm phát cơ bản trong nước gia tăng.
“Chiến lược chi tiêu thận trọng hơn và tập trung hơn vào đúng ưu tiên nhằm đảm bảo đầu tư cho vốn con người, hạ tầng xanh và thích ứng khí hậu sẽ giúp nâng cao khả năng chống chịu và tiềm năng của nền kinh tế,” chuyên gia WB khuyến nghị./.