1. Chủ động đề xuất nhiều chính sách mới
Để kịp thời ứng phó với các tác động do dịch bệnh, đầu năm 2022, Bộ Tài chính đã chủ động đề xuất và triển khai thực hiện ngay Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội tại Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 do Quốc hội ban hành, với hàng loạt các gói hỗ trợ tài khóa và tiền tệ.
Trong đó, các chính sách tài khóa là chủ yếu, chiếm khoảng 83% tổng giá trị chương trình. Các chính sách thuế trong chương trình đã hỗ trợ cụ thể, như giảm 2% thuế giá trị gia tăng để thúc đẩy cả sản xuất và tiêu dùng, góp phần kiểm soát lạm phát với số tiền hỗ trợ khoảng 51,4 nghìn tỷ đồng; gia hạn thời hạn nộp thuế, tiền thuê đất quy mô 135 nghìn tỷ đồng…
Dự kiến thực hiện các giải pháp nêu trên sẽ hỗ trợ cho doanh nghiệp và người dân với tổng giá trị tiền thuế, tiền thuê đất, phí và lệ phí, tiền thuê đất được miễn giảm, gia hạn năm 2022 khoảng 233,5 nghìn tỷ đồng, trong đó: số tiền gia hạn khoảng 135 nghìn tỷ đồng; miễn, giảm khoảng 98,5 nghìn tỷ đồng. Tính đến ngày 15/12, cơ quan thuế đã thực hiện miễn giảm, giãn khoảng 193,4 nghìn tỷ đồng.
Đây cũng là số tiền giãn, giảm thuế, phí, lệ phí lớn nhất trong lịch sử ngành Tài chính.
2. Nhiều nhiệm vụ hoàn thành trước thời hạn
Từ đầu năm 2022 đến nay, tình hình thế giới biến động rất nhanh, phức tạp, chưa có tiền lệ, theo đó kinh tế trong nước cũng gặp nhiều khó khăn hơn. Song nhờ triển khai đồng bộ các giải pháp, Bộ Tài chính đã hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ về tài chính - ngân sách nhà nước đề ra.
Đến ngày 15/12/2022, thu ngân sách Nhà nước năm 2022 đạt 1.692 nghìn tỷ đồng, vượt 19,8% so dự toán, cao hơn 78 nghìn tỷ đồng so với số đánh giá thực hiện cả năm đã báo cáo Quốc hội; tỷ lệ động viên vào ngân sách Nhà nước xấp xỉ 18% GDP (vượt mục tiêu 15% GDP).
Chi ngân sách Nhà nước đảm bảo các nhiệm vụ trong dự toán và chi cho phòng, chống dịch, hỗ trợ người dân, chi cho an sinh xã hội, phòng chống khắc phục hậu quả thiên tai, bão lũ và các nhiệm vụ cấp bách khác.
Về cân đối ngân sách Nhà nước, bội chi và nợ công thấp hơn giới hạn được Quốc hội cho phép.
3. Dẫn đầu về chuyển đổi số
Trong nhiều năm qua, Bộ Tài chính đã tiên phong triển khai ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực tài chính - ngân sách nhà nước. Theo kết quả được công bố của Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ vào tháng 5/2022, Bộ Tài chính tiếp tục giữ vững vị trí thứ 2/17 bộ, cơ quan ngang bộ với kết quả Chỉ số Cải cách hành chính đạt 91,9/100 điểm. Đây là năm thứ 8 liên tiếp (2014-2021), Bộ Tài chính nằm trong nhóm 3 bộ, cơ quan ngang bộ dẫn đầu PAR Index.
Ngày 8/8, Bộ Thông tin và Truyền thông đã công bố Báo cáo kết quả đánh giá mức độ chuyển đổi số cấp bộ, cấp tỉnh năm 2021 (DTI 2021), trong đó Bộ Tài chính tiếp tục xếp vị trí thứ nhất về mức độ chuyển đổi số năm 2021 khối các bộ cung cấp dịch vụ công... Đây là năm thứ hai liên tiếp, Bộ Tài chính dẫn đầu về chuyển đổi số.
4. Phủ sóng hóa đơn điện tử cán đích trước 2 tháng
Với tinh thần quyết tâm cao và bằng nhiều biện pháp, giải pháp đồng bộ, thống nhất, ngành thuế đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ triển khai hóa đơn điện tử vượt tiến độ hơn 2 tháng theo quy định tại Nghị định số 123/2020/NĐ-CP.
Đến nay, trên cả nước 100% số DN đang hoạt động, có sử dụng hóa đơn đã chuyển sang sử dụng hóa đơn điện tử và 100% hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh theo phương pháp kê khai đã đăng ký và chuyển sang sử dụng hóa đơn điện tử, với tổng số hóa đơn điện tử đã được phát hành là trên 2,1 tỷ hóa đơn.
5. Xây dựng nền tài chính quốc gia phát triển bền vững
Trên cơ sở đề xuất, tham mưu của Bộ Tài chính, ngày 21/3/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 368/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược Tài chính đến năm 2030.
Theo đó, Chiến lược đã đề ra các chỉ tiêu cụ thể, tỷ lệ huy động vào ngân sách Nhà nước giai đoạn 2021-2025 bình quân không thấp hơn 16% GDP và giai đoạn 2026-2030 khoảng 16-17% GDP. Tỷ lệ huy động từ thuế, phí giai đoạn 2021-2025 khoảng 13-14% GDP và giai đoạn 2026-2030 khoảng 14-15% GDP.
Tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu ngân sách Nhà nước đến năm 2025 khoảng 85-86%, đến năm 2030 khoảng 86-87%. Đây là “kim chỉ nam” cho mọi hoạt động của ngành Tài chính thời gian tới, góp phần tạo nền tảng xây dựng nền Tài chính quốc gia phát triển bền vững, hiện đại, hội nhập.
6. Kịp thời chấn chỉnh thị trường chứng khoán
Năm 2022, thị trường chứng khoán chứng kiến nhiều biến động, tác động đến tâm lý nhà đầu tư. Nhằm phát triển thị trường chứng khoán an toàn, minh bạch, hiệu quả, bền vững góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, Bộ Tài chính tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý và chính sách phát triển thị trường.
Trong đó, Bộ Tài chính trình Chính phủ ban hành Nghị định số 65/2022/NĐ-CP ngày 16/9/2022 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 153/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế.
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính đã chỉ đạo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước tăng cường công tác quản lý các tổ chức kinh doanh chứng khoán, hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp và công ty đại chúng; phối hợp với các cơ quan chức năng tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra và xử lý nghiêm tình trạng thao túng, làm giá, đảm bảo sự phát triển lành mạnh, minh bạch và bền vững của thị trường chứng khoán.
Trong những phiên giao dịch cuối năm, thị trường chứng khoán đã dần hồi phục trở lại, VN-Index đạt 1.093,67 điểm tại phiên giao dịch ngày (5/12/2022).
7. Việt Nam tăng xếp hạng quốc gia
Năm 2022, Việt Nam tiếp tục ghi dấu ấn với việc tăng xếp hạng về công khai minh bạch ngân sách và tín nhiệm quốc gia. Theo đó, điểm số công khai minh bạch ngân sách của Việt Nam tiếp tục được cải thiện so với các kỳ đánh giá trước, nâng mức xếp hạng của Việt Nam lên 68/120 nước, tăng 9 bậc so với năm 2019 và tăng 23 bậc so với năm 2017 (chu kỳ đánh giá 2 năm 1 lần).
Có thể nói, chưa lúc nào xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam lại tốt như hiện nay. Tổ chức Moody's nâng xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam từ Ba3 lên Ba2 với triển vọng “ổn định”; Tổ chức S&P nâng xếp hạng lên BB+ với triển vọng “ổn định” và Tổ chức Fitch xếp hạng BB với triển vọng “tích cực.”
Việt Nam cũng là quốc gia duy nhất ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và là một trong số ít quốc gia trên toàn thế giới được nâng bậc tín nhiệm kể từ đầu năm đến nay.
8. Quốc gia kiểm soát lạm phát hiệu quả
Với vai trò là Thường trực Ban Chỉ đạo điều hành giá, Bộ Tài chính đã phối hợp chặt chẽ, linh hoạt với các bộ, ngành chủ động tính toán và dự báo các yếu tố tác động đến lạm phát, xây dựng các kịch bản, giải pháp điều hành giá cả năm cũng như từng thời kỳ trong năm kịp thời báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đưa ra các giải pháp phù hợp để kiểm soát lạm phát.
Kết quả là chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân của Việt Nam năm 2022 tiếp tục đạt mục tiêu mà Quốc hội và Chính phủ đặt ra là dưới 4%. Con số này thấp hơn so với nhiều nước, khu vực trên thế giới đã góp phần quan trọng vào việc hỗ trợ các doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
9. Tạo thuận lợi cho xuất-nhập khẩu đạt kỷ lục 700 tỷ USD
Tổng trị giá kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2022 chạm mốc kỷ lục 700 tỷ USD. Kết quả ấn tượng này đóng góp quan trọng vào tăng trưởng GDP năm 2022 và quá trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội sau thời gian đại dịch COVID-19.
Năm 2022, ngành Hải quan tiếp tục triển khai nhiều giải pháp tạo thuận lợi thương mại trong bối cảnh nhiều khó khăn mới nảy sinh.
Bên cạnh đó, ngành Hải quan đã tập trung chống thất thu, đẩy mạnh công tác phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại, kiểm tra sau thông quan; thanh tra kiểm tra…
Trong năm đã bắt giữ trên 16 nghìn vụ vi phạm trong lĩnh vực hải quan với trị giá 5,8 nghìn tỷ đồng, thu nộp ngân sách Nhà nước 425,6 tỷ đồng; cơ quan Hải quan đã ban hành quyết định khởi tố 45 vụ và chuyển các cơ quan khác khởi tố 112 vụ vi phạm.
10. Quốc hội thông qua Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi)
Ngày 16/6/2022, Luật Kinh doanh bảo hiểm số 08/2022/QH15 đã được Quốc hội khoá XV, kỳ họp thứ ba thông qua. Luật Kinh doanh bảo hiểm có 7 Chương, 157 Điều, hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2023 đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật có liên quan.
Quy định tại Luật mới cũng đã phân loại rõ các loại hợp đồng bảo hiểm tương ứng với các loại hình bảo hiểm; quy định rõ đối tượng được bảo hiểm, quyền lợi được bảo hiểm đối với từng loại hợp đồng bảo hiểm; nâng cao trách nhiệm của các chủ thể tham gia hợp đồng bảo hiểm trong việc cung cấp thông tin.
Luật Kinh doanh bảo hiểm khi được thực thi, kỳ vọng sẽ hỗ trợ thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển mạnh mẽ hơn về cả quy mô và chất lượng trong thời gian tới./.