Tổng số cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam hiện nay là 243 trường (không tính các trường thuộc khối quốc phòng, an ninh), trong đó số cơ sở giáo dục đại học có đào tạo liên thông là 134 trường, chiếm 49% số cơ sở đào tạo.
Đây là số liệu được Tiểu ban Giáo dục đại học của Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực đưa ra tại phiên họp thứ 4 của tiểu ban này chiều 22/12 về giải pháp thực hiện liên thông giữa các cấp học, trình độ đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Đại diện Tiểu ban Giáo dục đại học cho hay điều này cho thấy nhu cầu dạy và học liên thông là tương đối lớn.
Theo báo cáo kết quả đào tạo liên thông giữa trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng với trình độ đại học giai đoạn 2017-2023 của Tiểu ban Giáo dục đại học, khảo sát, thống kê cho thấy Giáo dục Mầm non, Giáo dục Tiểu học là những ngành có nhu cầu đào tạo liên thông lớn nhất bởi hai ngành này vẫn được đào tạo ở trình độ trung cấp và cao đẳng.
Bên cạnh đó, các ngành Luật, Luật kinh tế, Ngôn ngữ Anh, Kế toán, Dược học, Điều dưỡng, Y khoa, Luật Kinh tế, Công nghệ kỹ thuật điện - điện tử cũng là những ngành có đào tạo ở bậc trung cấp, cao đẳng. Do đó để đáp ứng yêu cầu công việc cũng như nâng cao trình độ, số lượng người học có nhu cầu học lên đại học là rất lớn.
Đào tạo liên thông có hai hình thức là chính quy và vừa làm vừa học, trong đó ở hình thức nào cũng có các đối tượng khác nhau: từ trung cấp lên đại học, từ cao đẳng lên đại học và từ đại học sang đại học (văn bằng 2). Trong số 134 trường có đào tạo liên thông, các trường có thể đào tạo cả theo hình thức chính quy và vừa làm vừa học, hoặc chỉ đào tạo một hình thức chính quy hoặc vừa làm vừa học, có thể đào tạo một hoặc nhiều cấp độ khác nhau tùy theo nhu cầu người học và năng lực đào tạo của nhà trường.
Mặc dù đào tạo liên thông chính quy từ cao đẳng lên đại học có nhiều trường tổ chức nhất nhưng số lượng chương trình đào tạo liên thông theo hình thức vừa làm vừa học từ cao đẳng lên đại học lại nhiều hơn với 411 chương trình. Nguyên nhân do đối tượng người học liên thông đa phần là những người đã đi làm, học liên thông lên đại học để phục vụ nhu cầu trong công việc. Do đó hình thức vừa làm vừa học là phù hợp, giúp người học vừa có thể duy trì công việc hiện có vừa có thể nâng cao kiến thức và trình độ.
Cũng theo Tiểu ban Giáo dục đại học, đối với đào tạo liên thông chính quy, 39% cơ sở đào tạo sử dụng hình thức xét hồ sơ; 23,4% sử dụng hình thức thi tuyển và 29,9% kết hợp thi tuyển và xét hồ sơ để tuyển sinh đầu vào. Về phương thức tổ chức đào tạo có 53,2% cơ sở đào tạo tổ chức lớp đào tạo liên thông riêng; 28,6% kết hợp tổ chức lớp liên thông chính quy riêng và lớp cùng sinh viên chính quy; 18,2% tổ chức cho sinh viên liên thông chính quy học cùng lớp với sinh viên chính quy.
Thảo luận về giải pháp phát triển đào tạo liên thông, các chuyên gia cho rằng việc đào tạo liên thông còn gặp một số khó khăn như quy định về số lượng chỉ tiêu đào tạo không vượt quá 20% chỉ tiêu chính quy khiến cho nhiều trường muốn giảm chỉ tiêu chính quy và nhận thêm chỉ tiêu liên thông cũng không thực hiện được. Bên cạnh đó, đào tạo liên thông từ giáo dục nghề nghiệp lên giáo dục đại học thiếu các tiêu chuẩn đầu ra ở mỗi trình độ trong một ngành, nghề và các điều kiện đảm bảo chất lượng cho các chuẩn đầu ra…
Theo Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Hoàng Minh Sơn, mặc dù hướng đến việc mở cơ hội, tạo điều kiện học tập cho người học nhưng điều đó không có nghĩa là dễ dàng và phải được thực hiện đúng luật. Đào tạo liên thông vẫn phải đáp ứng, thích nghi với sự thay đổi của thị trường lao động, đảm bảo chất lượng trong quá trình đào tạo. Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng cho rằng cần có quy định về điều kiện đầu vào, điều kiện đầu ra, khối lượng, thời lượng chương trình.
Hiện Bộ Giáo dục và Đào tạo đang triển khai xây dựng dự thảo Nghị định quy định về liên thông giữa các cấp học, trình độ đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân. Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn đề nghị Bộ Lao động Thương binh và Xã hội tham gia, phối kết hợp mạnh mẽ hơn nữa trong quá trình xây dựng dự thảo Nghị định. Thứ trưởng cũng yêu cầu trong quá trình xây dựng dự thảo Nghị định cần có sự thống kê, đối sánh, đánh giá đầy đủ về thực tiễn.