Hai nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Chúc và Trần Thanh Hưng vừa ấn hành cuốn sách Gốm Nam Trung bộ (NXB Đà Nẵng) với các nghiên cứu từ năm 1993, đồng thời giới thiệu nhiều hình ảnh từ các bộ sưu tầm quý hiếm của dân chơi gốm cổ.
Sau cơn lũ lớn, phát lộ làng gốm cổ 300 năm
Nhắc đến gốm Nam Trung bộ, giới sưu tập biết đến các địa danh có những làng nghề nổi tiếng, như: gốm Châu Ổ - Quảng Ngãi, gốm Gò Sành - Bình Định, gốm Quảng Đức - Phú Yên, gốm Lư Cấm - Khánh Hòa, gốm Chăm - Ninh Thuận, Bình Thuận… Trong quá khứ, những làng gốm này đã cung cấp vật dụng hàng ngày từ cái chén ăn cơm đến bình vôi đựng trầu cho người dân.
“Qua nghiên cứu bước đầu, thời thịnh hành, gốm Quảng Đức (Phú Yên) được bán đi nhiều nơi trong nước, cả người Kinh, người Thượng lẫn các quan Tây ở Cheo Leo, Phú Bổn, Phú Túc, Đắk Lắk, Gia Lai đều tìm mua” - Nhà nghiên cứu Trần Thanh Hưng nêu ví dụ.
Hai nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Chúc (bìa phải) và Trần Thanh Hưng |
Nhà nghiên cứu cổ vật Trần Đình Sơn ở TP.HCM cho biết, ông có một số hiện vật gốm Quảng Đức có thơ Nôm tìm được khi nạo vét kênh rạch Sài Gòn những năm sau 1975. Ban đầu, ông không biết chúng thuộc dòng gốm nào, nhưng thấy khá lạ mắt, nhất là sự đa dạng về men màu có dính vỏ sò. Nhà nghiên cứu Đoàn Nam Sinh cũng ở TP.HCM thì kể, khi nạo vét một số kênh rạch ở Sài Gòn cũng phát hiện khá nhiều gốm Quảng Đức. Rõ ràng, dòng gốm này đã từng có một thời gian được tiêu thụ, giao thương không chỉ ở khu vực miền Trung và Tây Nguyên.
Lúc đầu nhà nghiên cứu Trần Thanh Hưng dự tính chỉ làm sách về dòng gốm Quảng Đức nhưng khi gặp nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Chúc (sinh năm 1937), hai ông quyết định mở rộng ra cả khu vực vì theo giao thương các dòng gốm cổ này đã hiện diện khắp mọi miền.
Những dòng gốm cổ Nam Trung bộ của các làng nghề nêu trên hiện có nhiều trong bộ sưu tập tư nhân và cuốn sách Gốm Nam Trung bộ nhận được sự cộng tác của các nhà sưu tầm, nghiên cứu gốm sứ nổi tiếng, như: Lâm Dũ Xênh (Quảng Ngãi), Nguyễn Vĩnh Hảo (Bình Định), Đoàn Phước Thuận (Phú Yên), Mang Tấn Phong (Khánh Hòa), Bùi Văn Thuật (TP.HCM), Nguyễn Văn Tuấn (Lâm Đồng), Võ Minh Luân (Đak Lak)...
Dù ấp ủ từ năm 1993 nhưng đến khi xuất bản, Gốm Nam Trung bộ chỉ in với số lượng 300 cuốn chủ yếu dành cho giới sưu tập đặt trước và để tặng các bảo tàng |
Câu chuyện về gốm còn là câu chuyện của thời gian trôi qua vùng đất này. Ví dụ ba nghệ nhân cuối cùng biết về gốm cổ Quảng Đức là Nguyễn Ky, Nguyễn Dần và Nguyễn Thịnh. Khi nhà nghiên cứu Trần Thanh Hưng đến làng Quảng Đức năm 1993, sau cơn lũ lớn, làm phát lộ nhiều phế tích làng nghề, cụ Nguyễn Ky đã mất ở tuổi 81, hai cụ còn lại đều ngoài thất thập và là anh em họ hàng. Theo các cụ, gốm Quảng Đức đã có lịch sử trên 300 năm, khoảng cuối thế kỷ XVII.
Minh chứng về kỹ thuật chế tác gốm độc đáo riêng ở Quảng Đức
Khai sinh ra dòng gốm này là một dòng họ Nguyễn ở Bình Định mang nghề vào. Từ các chi tiết này có thể cho thấy gốm Quảng Đức là sự tiếp nối dòng gốm Gò Sành (Bình Định) nổi tiếng từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XV dưới vương triều Vijaya Chămpa.
Khi dòng họ này đến làng Quảng Đức, nhận thấy nơi đây thuận lợi cho nghề, nhất là về nguyên liệu, nhiên liệu và đặc biệt là giao thông thủy để vận chuyển tiêu thụ gốm, họ dừng lại và tiếp nối nghề. Chính trên vùng đất mới này, những nghệ nhân xưa đã cho ra đời một dòng gốm không lẫn vào đâu được.
Dòng gốm Nam Trung bộ giới thiệu trên sách |
Theo anh em nhà cụ Nguyễn Thịnh, gốm Quảng Đức được làm bằng đất sét ở An Định, dùng sò huyết đầm Ô Loan trong quá trình nung, đốt chủ yếu bằng củi mằng lăng trong vùng và chở từ Kỳ Lộ (huyện miền núi Đồng Xuân) xuống qua đường sông Cái. Đất sét xanh thì dùng chế tác đồ thông dụng, đất sét vàng thì dùng làm đồ cao cấp hơn. Còn đất sét xanh trộn với đất sét vàng làm đồ có kích cỡ lớn.
Về kỹ thuật, gốm Quảng Đức cũng dùng bàn xoay như các loại gốm Việt khác. Qua khảo sát 7 chiếc lò nung gốm cổ Quảng Đức lúc còn sót lại và mô tả của các nghệ nhân, chúng tôi nhận thấy: kích thước lò nung có chiều cao và chiều rộng khoảng 2,5 mét, dài chừng 4 mét với 2 cửa lớn để đốt lò và 2 ống khói bên trên.
Ông Trần Thanh Hưng, cho biết thêm: “Trước sự quan tâm của nhiều người về dòng gốm Quảng Đức, gần đây Trung Quốc đã chế tác ra một dòng gốm tương tự. Nhiều người nhầm tưởng đó là những sản phẩm độc đáo, có một không hai, và mua với giá rất cao. Nhưng nếu quan sát kỹ, dòng gốm này không có dấu lạc tinh (độ bào mòn qua thời gian), dấu vỏ sò in trên gốm quá lớn, không đúng với kích thước phổ biến của sò huyết đầm Ô Loan, men màu quá sặc sỡ, chất đất ở đáy hiện vật không phải chất đất sét An Định…”
Dòng gốm Nam Trung bộ |
Ông Trần Thanh Hưng từng nhiều năm làm báo, hiện là Giám đốc Sở TT&TT Phú Yên, mơ ước:”Từ chỗ chỉ vài nhà sưu tập ở Phú Yên đam mê, sưu tầm gốm cổ Quảng Đức, hiện nay, dòng gốm này đã được giới sưu tầm cả nước quan tâm. Điều đó sẽ góp phần bảo tồn một dòng gốm cổ đã thất truyền, là cơ sở để nghiên cứu, phục dựng việc chế tác khi có điều kiện.
Nếu chế tác thành công gốm cổ Quảng Đức thì chúng ta làm được một điều vô cùng ý nghĩa: “Chứng minh cho thế giới về một kỹ thuật chế tác gốm độc đáo riêng có ở Quảng Đức, đồng thời bảo tồn theo cách xây dựng Quảng Đức thành một địa chỉ du lịch, sản xuất gốm làm quà lưu niệm, nằm trong quần thể du lịch của địa phương gồm những di tích, thắng cảnh cấp quốc gia như thành An Thổ, nơi sinh Tổng Bí thư Trần Phú, nhà thờ Mằng Lăng, gành Đá Dĩa…”.
Tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam ở Hà Nội, trong số 36 địa chỉ lò gốm cổ Việt Nam thì Phú Yên nằm ở vị thứ 21 từ Bắc vào Nam với hai địa danh Quảng Đức và Mỹ Thạnh Tây (xã Hòa Phong, huyện Tây Hòa).
Các nghệ nhân gốm cổ Quảng Đức cũng cho biết triều Nguyễn đã từng giao quan Tuần Vũ ở Sông Cầu cho người đặt họ làm những chậu hoa lớn bằng đất nung với đề tài trang trí đắp nổi như: long - lân - quy - phụng, bát tiên quá hải, ngư tiều canh mục, chữ công… để đưa về Huế đô trang trí.
Cụ Nguyễn Thịnh còn cho biết, một lần, ông cùng một nghệ nhân dệt lụa Ngân Sơn ra Huế, một người lo trang trí non bộ, một người tiến lụa cho vua, được Bảo Đại thưởng 300.000 đồng. Trong số các hiện vật ông Trần Thanh Hưng sưu tầm được, có một số gốm cổ Quảng Đức là độc bản, như: chiếc hỏa lò để bàn, khuôn in hình chữ công, tượng Phật, ống nhổ, đôn hóa vàng, lư hương, chậu hoa có dòng chữ “1934 villa de Quang Đuc”.
Hai chiếc bình vôi từng nằm trong bộ sưu tập của ông Ngô Đình Cẩn, chiếc vò có dòng chữ Hán “Liên Thành công ty” do Hãng nước mắm Liên Thành đặt làm (Liên Thành là một trong những thương hiệu đầu tiên của Việt Nam xuất hiện từ năm 1904, cụ Phan Chu Trinh là một trong những thành viên sáng lập).
Làng Quảng Đức nay thuộc xã An Thạch huyện Tuy An tiếp giáp với sông Ngân Sơn, gần tỉnh lỵ xưa nên có nhiều làng nghề phát triển nhưng nay thì làng gốm đã thất truyền.